Tin mới nhất
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài trong sự nghiệp phát triển đất nước

Trong công cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cùng với đồng bào cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài đã góp phần không nhỏ. Bước vào thời kỳ nước ta đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, việc nhận thức đầy đủ và phát huy cho được sức mạnh của nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN) không chỉ là yêu cầu đặt ra đối với cơ quan chuyên trách mà còn cả với hệ thống chính trị, với toàn Đảng, toàn dân.

Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết thân mật trò chuyện
với bà con kiều bào dịp Xuân Mậu Tý 2008 

Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với việc phát huy nguồn lực NVNONN

Với tinh thần đại đoàn kết dân tộc, nhằm huy động tối đa nguồn lực của toàn Đảng, toàn dân vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị đã khẳng định: “Người Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN) là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước”, và “công tác đối với NVNONN là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và của toàn dân”.

Quan điểm ấy tiếp tục được Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X năm 2006 khẳng định. Nghị quyết nhấn mạnh các nhiệm vụ: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ đồng bào ổn định cuộc sống, chấp hành tốt pháp luật các nước sở tại; bảo vệ quyền lợi chính đáng của đồng bào. Làm tốt công tác thông tin trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài về tình hình trong nước và các chủ trương, chính sách của Nhà nước. Có chính sách khuyến khích người Việt Nam, trí thức Việt Nam ở nước ngoài hướng về quê hương, góp phần xây dựng đất nước; khen thưởng những người có nhiều thành tích đóng góp cho Tổ quốc”.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gặp gỡ kiều bào, sinh viên VN tại Thụy Sỹ
(tháng 1/2007)

Gần đây nhất, Chỉ thị số 19/2008/CT-TTg ngày 06/06/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục tăng cường triển khai thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ về công tác với NVNONN một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của việc huy động nguồn lực của NVNONN trong tình hình mới, quán triệt sâu sắc chủ trương “phát huy tiềm năng tri thức và kinh tế của NVNONN đóng góp vào sự phát triển đất nước” đến các bộ, ban, ngành và địa phương.

Cùng với tận dụng hiệu quả nguồn lực về tài nguyên và nhân lực trong nước, nhận thức đúng và kết hợp, huy động sức mạnh của cộng đồng NVNONN như một nguồn lực của dân tộc có thể giúp đất nước nhanh chóng tăng tốc phát triển, rút ngắn khoảng cách với các nước, thậm chí có khả năng đi tắt, đón đầu trong một số ngành, lĩnh vực ở tương lai không xa. Ngày nay, chúng ta nhận thức ngày càng rõ hơn: để phát triển kinh tế cần đồng thời phát triển khoa học công nghệ, phát triển nguồn nhân lực qua giáo dục đào tạo, phát triển văn hóa, xã hội, giao lưu và hội nhập quốc tế. Do vậy, việc huy động NVNONN để phát triển kinh tế hay phát triển đất nước cũng không bó gọn trong việc chỉ quan tâm thu hút nhà đầu tư, doanh nhân mà cần được triển khai trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội của đất nước.

Phó Chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa chụp ảnh lưu niệm
với các trí thức kiều bào dự Hội thảo “Trí thức người Việt Nam ở nước ngoài
với sự nghiệp xây dựng quê hương” tháng 8/2005 

Cộng đồng NVNONN ngày càng phát triển, trở thành một nguồn lực quan trọng

Hiện nay, có khoảng 4 triệu người Việt Nam đang sinh sống và làm việc tại hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, đại bộ phận tập trung ở 21 nước thuộc 5 khu vực địa lý: Bắc Mỹ, Tây - Bắc Âu, Nga - Đông Âu, Đông Dương - Đông Bắc Á và Châu Úc. Về quy chế pháp lý, tại các nước phát triển phương Tây, tỷ lệ người Việt Nam có quốc tịch nước sở tại khá cao (khoảng 75-80%), trong khi ở Nga và một số nước Đông Âu, chỉ có một bộ phận nhỏ người Việt (khoảng 15- 20%) có quy chế định cư, số ít có quốc tịch, còn đa số (80%) chưa có quy chế định cư hoặc giấy tờ cư trú hợp pháp. Với số lượng và quy mô như vậy, NVNONN thực sự là nguồn lực quan trọng, có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, đặc biệt trong quá trình đất nước ta tham gia hội nhập quốc tế. Nguồn lực của kiều bào có thể đóng góp cho đất nước trên các mặt:

- Làm cầu nối cho việc mở rộng quan hệ hợp tác của nước ta với các nước, thúc đẩy quan hệ ngoại giao, kinh tế, chính trị, góp phần quảng bá hình ảnh, thương hiệu, củng cố, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên thế giới.

- Tài chính: gửi tiền kiều hối, đầu tư về nước, hỗ trợ, liên kết với đầu tư trong nước ra nước ngoài.

- Thương mại: giúp trong nước tìm thị trường, tạo lập kênh phân phối, xuất khẩu hàng Việt Nam, tư vấn về pháp lý.

- Tri thức: giúp nhanh chóng nâng cao trình độ nghiên cứu, phát triển khoa học và công nghệ, kinh nghiệm quản lý, phát triển nguồn nhân lực.

-  Cung cấp thông tin, môi giới, giúp tìm đối tác về đầu tư, thương mại, du lịch, xuất khẩu lao động.

-  Trực tiếp hoặc vận động bạn bè sở tại, các tổ chức quốc tế hỗ trợ cho các dự án xã hội như xoá đói giảm nghèo, y tế, giáo dục, từ thiện...

Thứ trưởng Ngoại giao, Chủ nhiệm UBNVNONN Nguyễn Phú Bình chụp ảnh cùng
Ban vận động thành lập Hiệp hội Doanh nhân VNONN
tại Hội nghị Doanh nhân VNONN tháng 9/2006 tại Đà Nẵng 

Kiều hối ban đầu là nguồn tiền của người Việt định cư ở nước ngoài gửi về giúp thân nhân trong nước. Trong những năm đất nước khó khăn, bị bao vây, cấm vận, kiều hối là nguồn sống chủ yếu của nhiều gia đình và tạo việc làm cho nhiều gia đình khác. Kiều hối cũng từng là nguồn chính cung cấp vật tư cho nhiều xí nghiệp, nguyên liệu sản xuất thuốc chữa bệnh cho đồng bào trong nước. Ban đầu các quy định về chi trả, nhận kiều hối còn ngặt nghèo, khó khăn, tỷ giá chi trả do nhà nước quy định thấp hơn nhiều so với giá thị trường. Các chính sách có liên quan đến kiều hối dần được điều chỉnh, đến nay về cơ bản đã hoàn toàn thuận tiện, nhanh chóng, đáp ứng yêu cầu của người gửi và người nhận. Cùng với sự ổn định, phát triển của cộng đồng NVNONN, lượng kiều hối gửi về nước - trong đó bao gồm thu nhập của người lao động Việt Nam ở các nước gửi về ngày càng tăng, riêng năm 2007 con số này đã lên đến 6,7 tỉ USD, năm 2008 đã vượt trên 7 tỉ USD. Bên cạnh đó, còn một tỷ lệ không nhỏ kiều hối gửi về nước qua các đường không chính thức. Kiều hối ngày càng trở thành một nguồn tài chính quan trọng với đất nước. Ngày nay, kiều hối không chỉ để cho thân nhân trong nước chi dùng sinh hoạt mà còn là khoản đầu tư về nước của NVNONN qua thân nhân. Việc tiếp tục cải tiến chính sách quản lý ngoại hối, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế cùng việc tạo thuận lợi cho kiều bào về nước và cải thiện môi trường đầu tư sẽ góp phần làm tăng lượng kiều hối gửi về nước.

Quảng bá hình ảnh đất nước, tăng trưởng du lịch: Với lượng kiều bào về nước ngày một tăng, NVNONN còn là nguồn quan trọng góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và tăng trưởng ngành du lịch Việt Nam. Không chỉ về một mình, thông qua vợ chồng, bạn bè là người nước ngoài, kiều bào còn giới thiệu giúp thu hút khá nhiều khách quốc tế. Nhiều công ty du lịch của NVNONN là đối tác quan trọng giúp thu hút không chỉ du khách là kiều bào mà còn nhiều du khách quốc tế, giúp thông tin quảng bá du lịch, tổ chức các hội chợ, triển lãm, giới thiệu phong cảnh, tài nguyên của Việt Nam. Những năm trước đây, khi kinh phí có hạn và chưa quen với việc ra nước ngoài tham dự các hội chợ du lịch, chính thông qua kiều bào và các công ty du lịch của người Việt, ngành du lịch Việt Nam có điều kiện tham dự, nâng cao trình độ, tiếp cận được với khách hàng và các đối tác quốc tế, dần dần tạo được sự bùng nổ du lịch Việt Nam những năm gần đây. Nhiều kiều bào đã tham gia đầu tư xây dựng khách sạn, các khu dịch vụ du lịch, tham gia huấn luyện, đào tạo du lịch...

Các đại biểu tham dự Hội thảo Chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài
tại Tp. Hồ Chí Minh năm 2003 

Đầu tư: Từ khi đất nước mở cửa, trong dòng kiều bào về nước có không ít người về tìm cơ hội môi giới, làm ăn, đầu tư trong nước. Do khả năng kinh tế của NVNONN còn hạn chế, ít người có vốn lớn, nên khi chưa có Luật khuyến khích đầu tư trong nước cho phép kiều bào được đầu tư, kinh doanh với quy mô và loại hình như người trong nước, phần lớn đầu tư của kiều bào đứng dưới tên của thân nhân trong nước. Sau này một số người đã chuyển lại đăng ký đứng tên kinh doanh. Không ít các doanh nghiệp trong nước là của thân nhân kiều bào, phần lớn hoặc một phần tiền góp cổ phần là của kiều bào. Theo thống kê chưa đầy đủ hiện có khoảng 3000 doanh nghiệp đứng tên hoặc có vốn của NVNONN đầu tư trong nước với số vốn gần 2 tỉ USD. Ngày nay, kiều hối cũng là kênh quan trọng để đầu tư. Chưa có công trình nghiên cứu nào đưa ra được số liệu chính xác nhưng chắc chắn một tỷ lệ không nhỏ trong dòng kiều hối đổ về nước đã đi vào nhà cửa, đất đai, vào các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong nước, đứng tên thân nhân, người quen trong nước. Cho đến gần đây, kiều bào đã được hưởng nhiều thuận lợi, hầu như không còn rào cản với Luật đầu tư mới. Bên cạnh việc đầu tư về nước, nhiều doanh nghiệp của người Việt đã tạo dựng cơ sở sản xuất, phân phối ở nước ngoài, hiểu biết thị trường và có những quan hệ với sở tại, có khả năng hỗ trợ, phối hợp với doanh nghiệp trong nước khi đầu tư ra nước ngoài.

Thương mại, xuất khẩu: Sau năm 1991, khi thị trường truyền thống Đông Âu bị chao đảo, hàng may mặc, thủ công mỹ nghệ Việt Nam đã thâm nhập trở lại thông qua các công ty, doanh nhân NVNONN. Doanh số xuất khẩu hàng Việt Nam qua các công ty của người Việt tại một số thị trường đã có lúc chiếm đến 80-90%. Sau sự kiện Liên minh châu Âu mở rộng, nhiều doanh nghiệp người Việt đã chuyển đổi hình thức kinh doanh từ lập chợ cho thuê, bán hàng kém chất lượng sang làm ăn bài bản hơn, xây dựng các trung tâm thương mại, liên kết thành các nhóm công ty hỗ trợ lẫn nhau. Ở nhiều nước đã thành lập các Hội doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam, hình thành nhiều trung tâm thương mại, tận dụng thế mạnh của mạng lưới bán hàng của người Việt, với sự liên kết, hỗ trợ từ phía trong nước. Có mặt ở nhiều thị trường chủ chốt, NVNONN có khả năng tiếp cận, nắm bắt nhu cầu thị trường, hiểu biết về luật lệ và có quan hệ với giới chức sở tại, do đó có thể hỗ trợ cho hoạt động thương mại, xuất khẩu trong nước.  

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về NVNONN Nguyễn Quốc Dũng trao Bằng khen
của Thủ tướng Chính phủ cho các cá nhân và tập thể kiều bào có nhiều thành tích

Những năm qua nhiều chuyên gia kiều bào đã về nước tư vấn, giảng dạy về luật lệ, kiến thức kinh tế đối ngoại cho nhiều tổ chức, địa phương trong nước. Sau Hội nghị Doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài tháng 9/2006 tại Đà Nẵng, Ban Vận động thành lập Hiệp hội doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài đã ra mắt. Sau nhiều nỗ lực của Ban Vận động cũng như sự hỗ trợ của các cơ quan trong nước, Hiệp hội Doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài đã chính thức thành lập và tiến hành Đại hội lần thứ nhất vào tháng 8 vừa qua. Đây là mốc sự kiện quan trọng, đánh dấu sự phát triển bước ngoặt của cộng đồng doanh nghiệp kiều bào nhằm gắn kết, huy động thế mạnh của mạng lưới doanh nhân kiều bào, từ đó hỗ trợ, phối hợp với doanh nghiệp trong nước thúc đẩy xuất khẩu và đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài.

Chuyên gia, trí thức người Việt với số lượng trên 300.000 người, là nguồn lực lớn, có khả năng đóng góp cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tập trung chủ yếu ở các nước phát triển, trình độ khoa học, công nghệ cao; có mặt trong hầu hết các lĩnh vực, kể cả các ngành mũi nhọn từ công nghệ điện tử, sinh học, vật liệu mới, tin học cho đến hàng không, vũ trụ... Số người Việt hoạt động trong lĩnh vực công nghệ tin học, viễn thông hiện rất lớn, riêng Silicon Valey ở Mỹ có hơn 10.000 người Việt làm việc. Ước tính ở Mỹ hiện có hơn 150.000 trí thức người Việt, Pháp khoảng 40.000, Canada hơn 20.000; tại các nước Đông Âu hiện chỉ khoảng 5.000, số đông đã chuyển sang hoạt động kinh doanh. Nhiều con em kiều bào và học sinh Việt Nam du học được các cơ quan thông tin truyền thông nêu danh về thành tích trong học tập. Ngày càng nhiều nhà khoa học VNONN đồng thời là doanh nhân, có công nghệ, kinh nghiệm quản lý, tổ chức sản xuất, kinh doanh, nắm vững và thiết lập quan hệ với thị trường quốc tế. Đây là vốn quý mà trong nước không mất kinh phí, công sức cũng như khó có thể đào tạo trong thời gian ngắn nhưng vẫn có khả năng huy động đóng góp cho đất nước trên các mặt:

- Chuyển giao tri thức, chuyển giao công nghệ

- Huấn luyện, giảng dạy, đào tạo

- Tư vấn, thẩm định

- Cung cấp thông tin

- Hỗ trợ nghiên cứu, triển khai

- Làm cầu nối hợp tác khoa học, đào tạo, giúp tìm kinh phí, tìm thị trường cho các sản phẩm, công trình nghiên cứu.

Thứ trưởng Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về NVNONN Nguyễn Thanh Sơn
dẫn đầu Đoàn công tác tham quan Trung tâm Thương mại VN tại Ukraina

Những tồn tại trong công tác phát huy nguồn lực NVNONN

Mặc dù đã thu được nhiều thành tựu đáng kể, việc phát huy tiềm lực của NVNONN trong thời gian qua còn nhiều hạn chế dẫn đến tình trạng nhân tài, vật lực của kiều bào ta bị bỏ phí hay sử dụng không hiệu quả. Đơn cử như trong lĩnh vực thu hút trí thức kiều bào. Trong số chuyên gia, trí thức NVNONN, hàng năm mới có khoảng gần 300 lượt người về nước đóng góp. Con số này là quá nhỏ so với khả năng và mong muốn đóng góp của trí thức kiều bào cũng như với nhu cầu trong nước.

Có thể kể đến một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên như sau:

-  Tình trạng chưa quán triệt đầy đủ tinh thần và các quan điểm của Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về cộng đồng và công tác đối với NVNONN. Qua công tác sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết, thấy rõ sự thiếu nhất quán ở các ngành, các cấp từ trung ương đến địa phương trong nhận thức về cộng đồng cũng như trong việc xây dựng và triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách đối với NVNONN, thiếu sự phối hợp giữa các ngành liên quan ở trong nước,... dẫn đến một số trường hợp xử lý chưa thoả đáng, gây hậu quả đáng tiếc hoặc bức xúc trong kiều bào. Những khó khăn này đã tác động không thuận đến tâm tư, tình cảm của đồng bào, gây khó khăn và hạn chế kết quả công tác vận động NVNONN hướng về quê hương và đóng góp xây dựng đất nước.

-  Trong những năm qua, công tác xây dựng và thực hiện các chính sách có liên quan đến NVNONN đã có nhiều bước tiến. Đến nay, nhìn chung chúng ta đã xây dựng được một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng về cơ bản những tâm tư, nguyện vọng và tình cảm của cộng đồng NVNONN trong mối liên hệ với quê hương, đất nước. Tuy vậy, nhiều chính sách còn chậm được ban hành và có chính sách đã ban hành nhưng chậm được triển khai thực hiện hoặc thực hiện kém hiệu quả, thậm chí sai lệch, làm giảm lòng tin của đồng bào.

- Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện đúng tinh thần của Nghị quyết 36 và Chương trình hành động của Chính phủ trong công tác đối với NVNONN, tạo thuận lợi hơn nữa cho việc thu hút bà con hướng về Tổ quốc và đóng góp cho công cuộc xây dựng đất nước trong tình hình mới – đó là những nhiệm vụ rất quan trọng và phức tạp, nặng nề. Tuy nhiên, chúng ta chưa xây dựng được tổ chức bộ máy thống nhất và rộng rãi ở tất cả các địa phương trong cả nước để làm công tác đối với NVNONN. Nhiều bộ, ngành, địa phương còn lúng túng, trì trệ trong việc giải quyết những yêu cầu và lợi ích chính đáng của bà con, mặt khác cũng chưa đưa ra được những phương thức và lĩnh vực cụ thể để tranh thủ thu hút sự tham gia, đóng góp của trí thức kiều bào cho sự phát triển kinh tế-xã hội và công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.  

Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam tại châu Âu lần thứ tư tại Berlin tháng 9/2009  

Một số giải pháp nhằm phát huy hiệu quả nguồn lực NVNONN phục vụ phát triển đất nước

Những năm gần đây, nhiều chính sách tạo thuận lợi cho cộng đồng NVNONN đã được ban hành như quy chế miễn thị thực, nhập xuất cảnh Việt Nam có hiệu lực từ ngày 1/9/2007 đã tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nhân kiều bào về nước, tìm hiểu và mở rộng cơ hội hợp tác kinh doanh. Ngày 13/11/2008, Luật Quốc tịch sửa đổi đã được Quốc hội thông qua tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài trong khi có quốc tịch nước ngoài, được giữ quốc tịch Việt Nam. Đặc biệt, ngày 18/6/2009 mới đây, Quốc hội đã thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung Điều 126 Luật Nhà ở và Điều 121 Luật Đất đai, theo đó người Việt Nam định cư ở nước ngoài bao gồm người có quốc tịch Việt Nam và người gốc Việt Nam được sở hữu nhà như công dân trong nước.

Tuy nhiên, để công tác huy động nguồn lực của NVNONN vào công cuộc phát triển đất nước có hiệu quả hơn nữa trong thời gian tới, cần chú trọng thực hiện những việc sau đây:

1. Nâng cao nhận thức về cộng đồng và nguồn lực của cộng đồng đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước:

Đây là yếu tố quyết định đầu tiên để có thể vận động, huy động được tiềm năng của cộng đồng. Do nhiều nguyên nhân lịch sử đã hình thành cộng đồng NVNONN với sự đa dạng về thành phần, phức tạp về thái độ chính trị mà mức độ khác nhau theo từng địa bàn. Thực tế đã chứng tỏ, dù ra đi trong bất kỳ hoàn cảnh nào, hầu hết NVNONN vẫn có nhu cầu gắn bó với quê hương, gia đình, người thân ở trong nước, vẫn mong muốn trở về góp sức xây dựng quê hương. Cần tiếp tục quán triệt Nghị quyết 36-NQ/TW của Bộ Chính trị tới mọi cá nhân, tổ chức để họ thấm nhuần, thực hiện, chủ động hỗ trợ, tạo điều kiện vận động kiều bào và thân nhân của họ. Có kế hoạch nắm danh sách kiều bào và thân nhân, đặc biệt là những người có khả năng về đầu tư, về tri thức. Thông qua công tác vận động thân nhân để vận động kiều bào.

Kiều bào nhận danh hiệu “Vinh danh nước Việt” 2005 của báo điện tử VietNamNet 

2. Xây dựng chính sách, cải cách hành chính:

Xây dựng chính sách và đặc biệt việc thực hiện chính sách đã ban hành, cải cách hành chính là nguyện vọng chung của NVNONN. Các bộ, ngành có thẩm quyền cần tiếp tục rà soát, nghiên cứu ban hành các chính sách tạo thuận lợi cho kiều bào, thực hiện đúng các chủ trương, chính sách đã ban hành, không phân biệt đối xử. Cần lắng nghe với thái độ cầu thị mọi góp ý, tư vấn của kiều bào và thân nhân. Bảo vệ quyền lợi chính đáng của kiều bào và thân nhân. Không chỉ quan tâm đến vận động kiều bào đóng góp mà thông qua việc hỗ trợ tạo thuận lợi cho kiều bào về đầu tư, làm ăn sẽ thu phục, có được lợi ích lớn về lâu dài.

3. Tăng cường công tác thông tin:

Mặc dù các cơ quan chức năng đã có nhiều cố gắng, đầu tư nhiều kinh phí cho công tác văn hoá, thông tin cho cộng đồng nhưng còn xa mới đáp ứng yêu cầu, trong lúc các thông tin sai lạc về tình hình trong nước vẫn còn tác động đến cộng đồng. Ngoài thông tin về văn hoá, thông tin về kinh tế, xã hội về nhu cầu hợp tác tri thức, về đầu tư, kinh doanh cụ thể của các ngành, địa phương là hết sức cần thiết. Việc không hiểu rõ và nắm bắt những yêu cầu và năng lực của cả trong và ngoài nước là nguyên nhân của việc hợp tác không thành công của kiều bào với trong nước.

Công ty IQLink tại Hải Dương với chủ đầu tư là Việt kiều 

4. Tổ chức:

Tổ chức tốt có ý nghĩa quyết định trong việc huy động nguồn lực của cộng đồng. Ở mọi cấp địa phương hay cơ quan chức năng cần có bộ phận theo dõi việc vận động, thực hiện chính sách đối với kiều bào và thân nhân,  lựa chọn người có đủ trình độ, năng lực và nhiệt tình làm công tác. Đây không đơn thuần là việc quản lý hành chính nhà nước mà còn là vận động quần chúng, lại là đối tượng quần chúng đặc biệt sinh sống ở nước ngoài, có liên hệ chặt chẽ với trong nước, có tác động cả về kinh tế, xã hội, chính trị với trong nước. Chú trọng vận động thân nhân, tạo điều kiện và hướng dẫn để các tổ chức thân nhân kiều bào phát huy vai trò tích cực trong các hoạt động. Tạo điều kiện quy tụ kiều bào về đầu tư, làm ăn, trí thức kiều bào về nước đóng góp trong các hình thức câu lạc bộ, tổ chức, hiệp hội, nhóm tư vấn... để phát huy tính tích cực và khả năng đóng góp của kiều bào. Việc phối hợp và nhất quán trong hành động của các tổ chức, cơ quan từ trung ương đến địa phương trong công tác vận động kiều bào là yêu cầu cần thiết, đồng thời cũng là điểm yếu cần khắc phục. Bên cạnh việc bố trí nhân sự, cần có kinh phí thoả đáng cho công tác vận động kiều bào. Nghiên cứu vận động, khuyến khích việc phát huy khả năng của các tổ chức, cá nhân trong việc sử dụng các nguồn kinh phí tự có cho hoạt động và đãi ngộ các chuyên gia, trí thức kiều bào.

5. Động viên, khen thưởng:

Là nội dung quan trọng trong công tác vận động kiều bào và thân nhân. Cần phát huy tính chủ động, tích cực của các tổ chức, cá nhân, phát huy sáng kiến, tìm nhiều hình thức động viên, khen thưởng kịp thời bằng nhiều hình thức khác nhau từ biểu dương, tặng bằng khen, giấy khen, ghi danh, cấp các loại giấy chứng nhận thành tích, xác nhận có công, xác nhận ưu đãi đến việc đặt biển tên trên công trình, đề nghị các cấp khen thưởng, tặng huân, huy chương... Tạo nên các phong trào thi đua, gắn bó về tình cảm giữa kiều bào với tổ chức, cơ quan, địa phương từ đó vận động, thu hút kiều bào về đóng góp.

Trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự tổ chức, lãnh đạo của Đảng, đồng bào ta ở nước ngoài đã sát cánh, góp phần xứng đáng cùng đồng bào cả nước. Sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước đang mở ra những cơ hội mới đồng thời đòi hỏi việc phát huy tiềm năng, nguồn lực của toàn thể dân tộc, trong đó việc huy động nguồn lực của NVNONN như một bộ phận quan trọng của nguồn lực dân tộc sẽ góp phần nhanh chóng thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh mà Đảng ta đã đề ra.

Tạ Nguyên Ngọc
Vụ trưởng Vụ Quan hệ Kinh tế, Khoa học và Công nghệ
Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài


Các tin khác

Tin tiêu điểm