Một chặng đường
Quê Hương xin giới thiệu bài viết của Gs.Tskh Nguyễn Ngọc Trân Phó Chủ nhiệm UBKHKTNN kiêm Phó Trưởng Ban Việt kiều Trung ương (1981-1992), và Trưởng Ban Việt kiều TW, Chủ nhiệm UBNVNONN (1992-1996).
|
Tháng 6/1981, lần đầu tiên Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước chính thức tham gia công tác vận động kiều bào. Tôi nhận được sự phân công kiêm nhiệm Phó Trưởng Ban Việt kiều Trung ương, do đồng chí Đặng Thí, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng kiêm Trưởng Ban.
Tháng 10/1992, tôi được giao nhiệm vụ Trưởng Ban chuyên trách. Đất nước lúc đó đang còn bị bao vây cấm vận. Sự thay đổi thể chế chính trị ở Liên Xô và các nước Đông Âu đảo lộn nhiều mặt trong đó cấp bách nhất là trao đổi thương mại của Việt Nam, nhiều bài toán kinh tế phải có hướng giải quyết khác chỉ trong một thời gian ngắn. Số người ra đi bất hợp pháp có giảm, thay vào đó là những đợt xuất cảnh theo chương trình ra đi có trật tự và theo diện đoàn tụ gia đình. Cộng đồng NVNONN trở nên đa dạng hơn, khác với thời kỳ trước 1975. Trong nước, đường lối đổi mới của Đảng bắt đầu vực dậy sinh lực và tiềm năng của đất nước.
Nhận nhiệm vụ trong bối cảnh đó, tôi ý thức trách nhiệm nặng nề mà Đảng và Nhà nước giao cho và nhận thức công tác kiều bào phải thể hiện đường lối Đổi mới chung. Một tháng sau, sau khi bàn bạc trong tập thể Ban Việt kiều Trung ương, tôi đến báo cáo với Thủ tướng Võ văn Kiệt dự kiến triển khai nhiệm vụ được giao.
Thủ tướng lắng nghe và nhấn mạnh phải sớm đến với kiều bào, trình bày thật rộng rãi tình hình thực tế đất nước và đường lối Đổi mới để kiều bào thấy cái thế của đất nước. Mặt khác lắng nghe ý kiến, kể cả những ý kiến khó nghe nhất, và nguyện vọng mà kiều bào đề đạt để xây dựng chính sách. Điểm xuất phát là phải xem kiều bào - dù ra đi vì bất cứ lý do gì, vào thời điểm nào, đều là con dân của Tổ quốc Việt Nam; Phải tin rằng mọi người Việt Nam đều có lòng yêu nước, những thành tựu của đường lối Đổi mới sẽ thổi bùng lên lòng yêu nước đó, gắn kết bà con với quê hương. Thủ tướng còn căn dặn, đất nước còn chậm phát triển, phải quý trọng chất xám, nhất là của những người có thực tài muốn góp phần xây dựng đất nước, trong khoa học công nghệ cũng như trong văn hóa nghệ thuật. Thủ tướng nhắc phải chung thủy với kiều bào ở Thái Lan, Lào và Campuchia, những cộng đồng đã hy sinh không kể xiết trong suốt hai cuộc kháng chiến.
Từ những ý kiến chỉ đạo trên, Ban Việt kiều Trung ương(2), phối hợp với Bộ Ngoại giao và Văn phòng Chính phủ, tổ chức Hội nghị Việt kiều Xuân Quý Dậu 1993 trong hai ngày 8-9/2/1993. Thủ tướng và nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã tham dự hội nghị và trực tiếp nghe ý kiến của kiều bào(3).
|
Chưa đầy ba tuần sau, Văn phòng Chính phủ đã thông báo ý kiến của Thủ tướng về các việc cần triển khai sau Hội nghị. Xin trích:
+ Bộ Tư pháp chủ trì phối hợp với Bộ Ngoại giao, Ban Việt kiều TW nghiên cứu việc Việt kiều mong muốn được mang hai quốc tịch, nếu chuẩn bị kịp, thì trình Quốc hội, Khóa IX, Kỳ họp thứ 3, tháng 6/1993, những điều khoản sửa đổi Luật Quốc tịch.
+ Văn phòng Chính phủ xem xét dự thảo Quyết định của Chính phủ do Ủy ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư trình “Về những biện pháp khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước”, trình Chính phủ ban hành trong thời gian gần nhất.
+ Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ và Ban Việt kiều TW sớm có văn bản hướng dẫn thực hiện Thông tư liên bộ 04/LB của ba cơ quan về nhập xuất cảnh, cư trú và đi lại của kiều bào. Cần nhanh chóng hướng dẫn, tổ chức, chỉ đạo thực hiện một cách nghiêm túc Thông tư này, đúng ngày có hiệu lực.
+ Đồng ý về nguyên tắc việc thành lập Ngân hàng Việt kiều ở Việt Nam. Ban Việt kiều TW và Ngân hàng nhà nước tham khảo ý kiến đề xuất của Việt kiều tại Hội nghị, xây dựng phương án chi tiết trình Thủ tướng Chính phủ xem xét trong Quý II năm 1993.
+ Đồng ý về nguyên tắc việc thành lập Trung tâm Đào tạo, Chuyển giao Công nghệ Việt kiều cho người đã trưởng thành. Giao cho Ban Việt kiều TW và các ngành có liên quan làm việc với các Việt kiều đã đề xuất tại Hội nghị, xây dựng phương án chi tiết trình Thủ tướng Chính phủ xem xét trong Quý II năm 1993.
+ Đồng ý cho Ban Việt kiều TW sử dụng cơ chế tư vấn của trí thức Việt kiều giúp Chính phủ trong một số lĩnh vực công tác thông qua đầu mối là Ban Việt kiều TW. Ban Việt kiều TW tham khảo ý kiến của các bộ, ngành liên quan, xây dựng chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và quy chế hoạt động của các ban tư vấn trình Thủ tướng xem xét, quyết định.
Đến nay nhiều nội dung đã được thực hiện, có việc nhanh sau đó, có việc 15 năm sau, và còn một số nội dung chưa thực hiện được.
Hội nghị tư vấn về Giáo dục đại học Việt Nam trước thách thức của thế kỷ XXI đã được tổ chức dịp Xuân Giáp Tuất, tháng 2/1994. Hơn 110 chuyên gia trong và ngoài nước, trong đó 43 người từ 11 nước bên ngoài về, đã làm việc trong suốt ba ngày liền, thảo luận sâu và không hề cảm thấy một sự ngăn cách nào, trên 7 chuyên đề mà đến hôm nay vẫn còn nguyên tính thời sự. Đặc biệt, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trưng cầu ý kiến của Hội nghị về 36 chủ trương đổi mới đại học(4).
Trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, trong số các công việc cần triển khai ngay, Ban Việt kiều TW, được sự chỉ đạo của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, đã phối hợp với các bộ ngành liên quan, chuẩn bị trình Bộ Chính trị Dự thảo Nghị quyết của Bộ Chính trị Về chính sách và công tác đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị đã được ban hành tháng 11/1993. Văn kiện khẳng định: “NVNONN là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”; “Tinh thần Người Việt Nam yêu nước Việt Nam phải vượt lên trên những khác biệt về tôn giáo, dân tộc, hoàn cảnh kinh tế, và cả sự khác nhau về chính kiến”.
Chính sách và công tác về NVNONN phải đáp ứng những yêu cầu chính là bảo vệ quyền lợi chính đáng của NVNONN; nâng cao ý thức cộng đồng, tăng cường đoàn kết tương trợ, đùm bọc lẫn nhau…, cùng nhau gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc và phẩm giá con người Việt Nam, tôn trọng luật pháp nước sở tại, hòa nhập với xã hội và nhân dân nước sở tại; giúp kiều bào hiểu tình hình đất nước, phát huy khả năng góp phần xây dựng quê hương, kết hợp lợi ích của mình và của đất nước.
Trong các chính sách và biện pháp, văn kiện nêu rõ: ưu tiên mời chuyên gia là người Việt Nam trong các chương trình, dự án hợp tác đa phương và song phương với bên ngoài; mời giáo sư và chuyên gia về giảng dạy ở các trường đại học, hoặc tham gia các chương trình nghiên cứu triển khai, kể cả trong lĩnh vực quản lý vĩ mô; thành lập Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài thay Ban Việt kiều Trung ương và kiện toàn cơ quan này(5).
|
Hoạt động của UBNVNONN sôi động hẳn lên sau Nghị quyết 08. Tạp chí Quê Hương bắt đầu được phát hành. Hai cơ sở dữ liệu - về trí thức và chuyên gia NVNONN, và về các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến kiều bào được xây dựng tại Ủy ban. Ban Việt kiều Thành phố Hồ Chí Minh cũng được đổi tên thành Ủy ban về NVNONN Thành phố Hồ Chí Minh và Chủ nhiệm Ủy ban này là Phó Chủ nhiệm Ủy ban về NVNONN.
Nhà Khách 32 Bà Triệu trở thành nơi về nghỉ và làm việc của các nhà khoa học, các văn nghệ sĩ như họa sĩ Lê Bá Đảng, nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo... Nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị đã tổ chức triển lãm ở đây một số tác phẩm của mình trước khi trao tặng cho Thành phố Huế quê hương của bà.
Hội nghị chuyên đề về hợp tác và đầu tư và nhiều hội nghị chuyên đề về công nghệ thông tin, công nghệ sinh học đã được tổ chức với trí thức, chuyên gia kiều bào.
Ủy ban đã cùng với Ủy ban Trung ương Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam ký một Thông tư liên tịch về việc phối hợp trong công tác vận động kiều bào và thân nhân của họ ở trong nước. Nhiều địa phương như Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Đồng Tháp, ... đã có bộ phận chuyên trách. Ủy ban cũng đã có hai hội nghị bàn về công tác này tại Hà Nội và Bà Rịa-Vũng Tàu trong những năm 1993-1996.
Tôi rời công tác ở UBNVNONN tháng 3/1996(6) để sang chuyên trách Phó Chủ tịch Ủy ban Quốc gia tổ chức Hội nghị cấp cao lần thứ 7 Cộng đồng các nước sử dụng tiếng Pháp tại Hà Nội tháng 11/1997. Rồi sau đó sang chuyên trách Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội. Dù ở cương vị công tác nào, tôi vẫn nhớ đến chặng đường gần bốn năm đầy ý nghĩa, chặng đường đầu của giai đoạn đổi mới công tác vận động kiều bào và hai bài học sâu sắc đối với tôi:
+ Xây dựng hệ thống chính sách, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng và vận động cộng đồng có kết quả là ba quá trình có quan hệ hỗ tương. Không thể nóng vội nhưng phải làm hết sức tích cực và chân thành;
+ Cộng đồng NVNONN rất cần để sự hội nhập của Việt Nam không chỉ vươn ra với thế giới mà còn giúp thế giới đến với Việt Nam, đến với những tinh hoa đậm tính nhân văn của dân tộc.
Gs.Tskh Nguyễn Ngọc Trân (1)
Chú thích:
1. Trong chặng đường bài viết này đề cập, tác giả là Phó Chủ nhiệm UBKHKTNN kiêm Phó Trưởng Ban Việt kiều Trung ương (1981-1992), và Trưởng Ban Việt kiều TW, Chủ nhiệm UBNVNONN (1992-1996).
2. Nghị định 03, ban hành ngày 18/1/1993, quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ban Việt kiều TW, cơ quan trực thuộc Chính phủ, có chức năng quản lý nhà nước và chỉ đạo công tác đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
3. 103 kiều bào từ 24 nước đã về dự. Xem “Kỷ yếu Hội nghị Việt kiều Xuân Quý Dậu 2/1993”, Ban Việt kiều TW, 1993.
4. Bảy chuyên đề là: (1) Hệ thống giáo dục đại học về cơ cấu trình độ và cơ cấu loại trường; (2) Hệ thống giáo dục đại học phân bố trên lãnh thổ; (3) Vấn đề quản lý hệ thống đại học; (4) Những biện pháp để nâng cao chất lượng đào tạo đại học; (5) Những biện pháp để gắn giảng dạy và nghiên cứu khoa học với phát triển kinh tế xã hội; (6) Những biện pháp để tăng cường hợp tác quốc tế và huy động chuyên gia người Việt ở nước ngoài góp phần xây dựng giáo dục đại học Việt Nam; (7) Trong điều kiện GDP của Việt Nam còn thấp, có những biện pháp gì để có nguồn tài chính cần thiết cho giáo dục đại học. Xem “Kỷ yếu Hội nghị chuyên đề về giáo dục đại học Việt Nam Xuân Giáp Tuất 2/1994”, Bộ Giáo dục và Đào tạo – Ban Việt kiều Trung ương, Hà Nội, 5/1994.
5. Ngày 30/7/1994, Chính phủ ban hành Nghị định 74/CP, thay thế Nghị định 03, về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của UBNVNONN, cơ quan thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước và chỉ đạo lĩnh vực công tác người Việt Nam định cư ở nước ngoài, thay thế Ban Việt kiều TW.
6. Từ tháng 10/1995, trong khuôn khổ cải cách hành chính nhà nước, UBNVNONN trực thuộc Bộ Ngoại giao.