A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

‘Hiệp ước về Biển cả’ - phát triển lịch sử của Công ước Luật Biển

 Ngày 4/3, tại New York, Hội nghị Liên chính phủ của Liên hợp quốc đã hoàn thành thương lượng Văn kiện pháp lý quốc tế về đa dạng sinh học ở vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia. Nhân dịp này, Thứ trưởng Ngoại giao Phạm Quang Hiệu đã chia sẻ về ý nghĩa của văn kiện đối với cộng đồng quốc tế và Việt Nam.

 Liên hợp quốc đạt thỏa thuận về sử dụng bền vững đa dạng sinh học biển.
Nguồn: Phái đoàn Việt Nam tại Liên hợp quốc

Tại sao lại gọi văn kiện này là “Hiệp ước về Biển cả”, thưa Thứ trưởng?

Tên chính thức của văn kiện này là Văn kiện pháp lý quốc tế về đa dạng sinh học ở vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia. Đây là văn kiện thứ ba trong khuôn khổ Công ước Luật Biển của Liên hợp quốc (LHQ) năm 1982, sau Hiệp định thực thi phần XI của Công ước (1994) và Hiệp định về đàn cá di cư (1995).

Vùng biển ngoài quyền tài phán quốc gia nói cách khác chính là phần biển cả rộng lớn ngoài vùng đặc quyền kinh tế và đáy biển ngoài thềm lục địa của các nước. Trên vùng biển quốc tế này, theo Công ước Luật Biển 1982, các nước có quyền tự do đánh cá, song khoáng sản dưới đáy biển thì được coi là di sản chung của nhân loại, việc khai khoáng phải thực hiện theo một cơ chế cấp phép và chia sẻ lợi ích của toàn thể các quốc gia.

Tuy nhiên, Công ước Luật Biển 1982 chưa điều chỉnh về một nguồn lợi mới, đó là nguồn gien biển của các loài sinh vật chỉ sống ở những vùng nước sâu và xa bờ. Hiện nay, hầu như chỉ có các nước phát triển và các công ty tư nhân sở hữu công nghệ biển và công nghệ sinh học hàng đầu, với nguồn tài chính dồi dào mới có khả năng thu thập nguồn gien biển và phát triển ứng dụng đem lại lợi nhuận, trong khi chưa có văn kiện quốc tế nào quy định cho họ nghĩa vụ chia sẻ lợi ích cũng như bảo tồn biển.

Văn kiện pháp lý quốc tế về đa dạng sinh học ở vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia điều chỉnh việc khai thác, bảo tồn, chia sẻ lợi ích từ nguồn gien biển tại một vùng biển rộng lớn, trong một lĩnh vực đầy tiềm năng. Văn kiện này xứng đáng với tên gọi là “Hiệp ước về Biển cả”.

Khoảnh khắc các quốc gia đạt được thỏa thuận, Chủ tịch hội nghị , bà Rena Lee đã bật khóc khi thông báo "con tàu đã tới bến bờ", phải chăng thành quả lịch sử này đã đi qua một hành trình không dễ dàng để có được, thưa Thứ trưởng?

Tại Hội nghị của LHQ về Phát triển bền vững năm 2012, các nước đã cam kết “xử lý khẩn cấp […] vấn đề bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học vùng ngoài quyền tài phán quốc gia, trong đó bao gồm quyết định về xây dựng một văn kiện quốc tế trong khuôn khổ Công ước Luật Biển của LHQ”. Tới năm 2017, sau hai năm làm việc của Ủy ban trù bị, Đại hội đồng LHQ ra nghị quyết triệu tập Hội nghị Liên chính phủ để xây dựng văn kiện, phiên họp đầu tiên diễn ra tháng 9/2018, tới nay đã trải qua năm phiên họp.

Trọng tâm của thương lượng suốt nhiều năm qua xoay quanh các khác biệt giữa các luồng quan điểm về khai thác và bảo tồn, giữa khuyến khích nghiên cứu, khai thác và xây dựng năng lực, chuyển giao công nghệ, chia sẻ lợi ích công bằng, trong đó, nhiều lúc các nước phát triển và các nước đang phát triển thể hiện lợi ích, quan điểm hoàn toàn trái ngược nhau.

Các cuộc thương lượng thu hút sự tham gia của hầu hết các nước thành viên LHQ, kể cả các nước không có biển hoặc không phải là thành viên Công ước Luật Biển 1982. Các cuộc họp luôn diễn ra với cường độ cao, diễn biến phức tạp, đặc biệt là Phiên họp thứ năm (kéo dài) vừa rồi đã kết thúc bằng 36 giờ làm việc không nghỉ.

Là một quốc gia biển, “thống nhất tư tưởng, nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng đặc biệt của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” - như Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nhận định - Việt Nam tích cực tham gia tiến trình thương lượng này ngay từ đầu.

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Ngoại giao đã chủ trì thành lập Đoàn liên ngành phối hợp với Phái đoàn Việt Nam tại LHQ tham dự tích cực tất cả các phiên họp. Trong quá trình thương lượng, ngoài phối hợp lập trường, thúc đẩy lợi ích chung của các nước đang phát triển, chúng ta còn đặc biệt quan tâm và đóng góp ý kiến đối với các nhóm vấn đề như Xây dựng năng lực và chuyển giao công nghệ, Khu bảo tồn biển, Các vấn đề xuyên suốt.

Kết quả Hội nghị, tại Phiên họp thứ năm (kéo dài) vừa qua, các nước đã thống nhất được gói thỏa thuận về các nội dung (i) Chia sẻ lợi ích từ nguồn gien biển, (ii) biện pháp phân vùng bảo tồn biển, (iii) đánh giá tác động môi trường, (iv) xây dựng năng lực và chuyển giao công nghệ, (v) thành lập và vận hành của các cơ quan, thể chế để thực hiện văn kiện, giải quyết tranh chấp, cơ chế tài chính…

Xin Thứ trưởng cho biết ý nghĩa của văn kiện này đối với cộng đồng quốc tế nói chung và Việt Nam nói riêng?

Thành công của Phiên thương lượng thể hiện quyết tâm chính trị của các quốc gia trong việc đạt được một văn kiện nhằm mục đích bảo tồn đa dạng sinh học biển tại biển cả. Đây là một dấu mốc lịch sử trong nỗ lực của cộng đồng quốc tế về bảo vệ môi trường biển, trong bối cảnh thực hiện Chương trình nghị sự 2030, đặc biệt là Mục tiêu phát triển bền vững số 14 (SDG 14) về bảo tồn và sử dụng bền vững biển và tài nguyên biển. Dự thảo văn kiện là bước phát triển quan trọng trong việc thực thi Công ước LHQ về Luật Biển 1982 – khung pháp lý cho mọi hoạt động trên các vùng biển và đại dương.

Việt Nam tham gia xây dựng văn kiện với mong muốn “trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an toàn… tham gia chủ động và có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển và đại dương”.

Tất cả các nước cũng đều đến với Hội nghị với mong muốn riêng của mình. Khó có văn kiện đa phương nào đáp ứng được hoàn toàn mong muốn của tất cả các nước hoặc riêng một nước nào, tuy nhiên về cơ bản nội dung Văn kiện đem lại thêm nhiều lợi ích cho các nước đang phát triển.

Thực tế là từ trước đến nay chưa có hiệp định nào điều chỉnh chi tiết việc bảo tồn, sử dụng bền vững đa dạng sinh học biển khơi và chia sẻ lợi ích liên quan. Với nội dung gói thỏa thuận vừa đạt được, văn kiện này mở ra khả năng cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam tận dụng các biện pháp xây dựng năng lực và chuyển giao công nghệ cũng như nguồn lực tài chính của quỹ chia sẻ lợi ích từ nguồn gien biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia để “tiếp cận, tận dụng tối đa thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến”, “đào tạo và phát triển nguồn nhân lực biển, hình thành đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ biển có năng lực, trình độ cao”, từ đó “phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học”, như các mục tiêu mà Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đề ra.

Như vậy, công việc tiếp theo Phiên họp này là gì, thưa Thứ trưởng?

Dự kiến, Hội nghị Liên chính phủ sẽ báo cáo Đại hội đồng về kết quả Phiên họp thứ năm (kéo dài) vừa qua về việc thành lập Nhóm làm việc về hoàn chỉnh kỹ thuật pháp lý nội dung văn kiện, dịch ra các thứ tiếng của LHQ và triệu tập thêm một Phiên làm việc được gọi là Phiên họp thứ năm (tiếp nối) để thông qua dự thảo văn kiện bằng sáu ngôn ngữ chính thức của LHQ. Các công việc chuẩn bị thường mất khoảng ba tháng, do đó khoảng cuối tháng Năm, đầu tháng Sáu năm nay các nước sẽ có dịp chính thức bày tỏ ý kiến của mình đối với việc thông qua văn kiện.

Tiến trình thương lượng văn kiện pháp lý quốc tế về đa dạng sinh học ở vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia đã sắp hoàn thành, chuyển sang giai đoạn mở ký, phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập và thực hiện.

Song, nhiều tiến trình thương lượng khác đang mở ra cho các văn kiện pháp lý quốc tế đa phương quan trọng xử lý vấn đề toàn cầu, như Công ước về Rác thải nhựa, Hiệp định về Dịch bệnh… Các văn kiện đó thuộc lĩnh vực chuyên môn khác nhau nhưng đều có những điểm chung là: sẽ thiết lập “luật chơi” toàn cầu; đụng chạm tới lợi ích sát sườn của các quốc gia; mang tính chất pháp lý, chính trị quốc tế sâu sắc; và đòi hỏi sự tham gia tích cực, chủ động của ta.

Với kinh nghiệm từ tiến trình thương lượng văn kiện pháp lý quốc tế về đa dạng sinh học ở vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia, chúng tôi cho rằng vai trò tích cực của các bộ, ngành chủ trì, cũng như sự phối hợp của Bộ Ngoại giao về luật pháp quốc tế, chính trị - ngoại giao quốc tế là then chốt để bảo vệ và thúc đẩy lợi ích của đất nước trong tiến trình thương lượng các văn kiện pháp lý quốc tế thời gian tới; thực hiện chủ trương nâng tầm đối ngoại đa phương theo Chỉ thị số 25-CT/TW ngày 8/8/2018 của Ban Bí thư.

Phương Hàbaoquocte.vn


Các tin khác

Tin tiêu điểm