Ao làng, nỗi nhớ
Nông thôn nói chung, làng quê nói riêng có nhiều thứ để nhớ: giếng làng, lũy tre làng, cổng làng, đình làng, nhà làng, ao làng, con đê, cây cầu tre, cây đa đầu làng… Những vật thể ấy sinh ra từ làng, là biểu hiện của nét văn hóa làng xã, thôn ấp của một thời không xa. Nhưng hôm nay đất chật người đông, “tấc đất tấc đô la”, nên có cái còn cái mất, nhưng điều mất trước tiên là cái ao làng.
Để cái ao làng tồn tại, theo cách nghĩ của không ít người hôm nay là “vô tích sự”, vì còn ao thì không có một nền đất đẻ ra tiền trăm, tiền tỷ!
Tiền nhân của chúng ta xây dựng làng xã thường chọn nơi có nước, vì có nước là có tất cả, gần con sông, con suối để công việc làm ăn sẽ dễ dàng hơn, vì đời sống bấy giờ là trồng trọt, vườn ruộng. Và cái ao cũng xuất phát từ… nước, chọn mạch nước ngầm để đào một cái ao dùng riêng cho gia đình, hoặc thiên nhiên ban tặng cho cái ao, mà ngày ấy đất rộng người thưa tha hồ lựa chọn một nơi an cư lạc nghiệp. Ngày nay đào ao là để nuôi tôm, cá… còn ngày xưa đào ao là để chứa nước, đó là những ao nước quanh năm trong veo chớ không phải là ao tù.
Nước có quanh năm, đến mùa mưa nước trong ao tràn ra ngoài đồng, nhưng mùa nắng khô hạn, ao làng vẫn giữ mực nước không đầy không vơi, hình như thiên nhiên đã ban tặng cho làng quê cái ao mà ở đó tình cảm chất chứa đong đầy, trong veo như mặt nước ao. Bắc một cây cầu tre hoặc tấm ván sát mặt nước để tiện ra ao rửa chân tay, cũng có thể tắm giặt và rảnh rỗi thì câu cá. Những đêm trời thanh gió mát, nghe tiếng cá quẫy đuôi, đớp mồi cho ta một cảm giác thanh bình đến kỳ lạ. Những ngày nghỉ học trường làng, tôi quanh quẩn bên ao để bắt chuồn chuồn, bắt bướm, câu cá. Mà thật kỳ lạ, chỉ nơi ao hồ mới có bướm và chuồn chuồn, chắc nó chọn một nơi mát mẻ và bình yên để tình tứ chăng? Còn những cỏ dại cây lá quanh ao đều tươi tốt có lẽ nó cũng hấp thu được một thứ nước trong lành? Quanh quẩn bên ao, mẹ tôi dặn: coi chừng rớt xuống ao nghe con!
Ao làng là nơi múc nước tưới cây, còn là máy “điều hòa” điều tiết nhiệt độ trong vườn. Với đôi thùng thiếc xuống ao gánh nước để tưới, nếu có điều kiện người ta đào những con mương quanh vườn dẫn nước từ ao để đỡ vất vả trong việc tưới tắm cây trồng. Nơi chứa nước thiên nhiên cũng có lắm điều kỳ thú: nhỏ là ao, lớn một chút là hồ, lớn hơn một chút nữa là bàu, những thứ của trời cho ấy đã dung hòa được giữa thiên nhiên đất trời, và con người cũng có được một nguồn sống từ những nguồn nước ấy.
Không biết từ thuở nào, ao làng bị hàm oan, khi người ta chê bai ai đó: “Quanh quẩn ao làng”. Thật ra nếu có một đời người chỉ quanh quẩn ao làng mà nuôi con cái nên người, làm ra của cải vật chất đóng góp cho xã hội, sống một cuộc đời thanh bạch… thì quanh quẩn ở ao làng cũng là một triết lý đáng sống lắm chứ?
Mặt nước ao làng không có sóng, dù chỉ một chút lăn tăn. Nhưng những buổi sớm tinh mơ có những bông hoa dại rụng xuống ao, điểm tô mặt nước như chiếc khăn thêu bông trải xuống mặt ao, và trong cái mông lung ấy hình như nghe có tiếng khẽ động của sương tan trên mặt nước, và khi có tiếng chân người đến gần, con chim bói cá vụt bay như một mũi tên mất dạng, con ếch giựt mình nhảy tỏm xuống ao mất tăm, chỉ có con cua đồng bò chậm chạp và hai con mắt giương lên ngờ nghệch một cách đáng thương. Hình ảnh ấy không thể thiếu của ao làng, và ao làng thật ra không có gì đáng giá, nhưng lại đáng nhớ trước tiên khi vì một lý do nào đó người ta bỏ quê nhà ra đi không hẹn ngày trở lại.
Ngày nay ao làng đúng nghĩa đã mất rồi. Nhưng may mắn thay hình ảnh ao làng đã được nhạc sĩ Lê minh Sơn vẽ lại bằng âm nhạc qua ca khúc “Bên bờ ao nhà mình” thật rõ nét nhất, không thêu dệt vẽ vời, không hư cấu, dựng lại một ao làng nguyên bản độc đáo nhất, đánh động tiềm thức trong mỗi chúng ta, những người lớn tuổi đã từng gắn bó với nó để nhớ lại kỷ niệm của một thời “đồng chua nước mặn”. Khai hoang, lập những đám đất vườn không cần bờ rào ngăn cách (chỉ nhận biết đất mình làm dấu bằng những bụi chuối, hàng cau, mấy cây dâm bụt) cuộc sống êm đềm bên vuông vườn cây trái xanh tốt bốn mùa. Còn người trẻ tuổi nghe “Bên bờ ao nhà mình” để được thấy cái ao làng của ông cha ngày xưa thật đơn sơ nhưng đong đầy những tình cảm, chỉ với cái ao nước mà lãng mạn biết dường nào! Tôi giựt mình khi tiếng hát Ngọc Khuê cất lên làm người nghe chau mày, một cô ca sĩ trẻ có chất giọng “không đụng hàng” và cũng “chẳng ai bắt chước được”, đã đưa người nghe “Bên bờ ao nhà mình” trở về từ ký ức làng quê. Cách nhả chữ, lối diễn tả “hát như nói” của ca sĩ, làm người nghe cảm tưởng như Ngọc Khuê đang kể một câu chuyện tình bên bờ ao của thời nhỏ dại… Trong cái hồn nhiên, vô tư, thanh xuân của thời dĩ vãng ấy, có một hình ảnh làm chúng ta chạnh lòng: “… Mỗi năm một lần vai áo bùn nâu mẹ phai rất nhanh…”. Có biết bao người mẹ tần tảo bới tìm bên bờ tre gốc rạ từ sáng sớm cho đến chiều tối?
Một bài hát ngắn, tác giả lập lại nhiều lần “Bên bờ ao nhà mình” để nhấn mạnh rằng không đâu khác:
… Bên bờ ao nhà mình/ Con chuồn chuồn vẫn đậu cành bèo Tây/ Bên bờ ao nhà mình lập lòe đom đóm bay/ Mỗi năm một lần thay áo màu xanh tìm con chuồn chuồn/ Bên bờ ao nhà mình lời nói yêu thương lời rằng vấn vương vương vấn/… Trái cam màu vàng em đã trồng bên bờ ao/ Dẫm chân cỏ dại hai đứa cùng nhau vui chơi ú tim/…
Đẹp, trong veo, thánh thiện. Xin mượn câu cuối của bài hát “Bên bờ ao nhà mình” để kết cho bài viết này:
Xa rồi, xa rồi nhỏ dại
Bao giờ, bao giờ trở lại…
Trần Hữu Ngư (theo baobinhthuan.com.vn)