Những vần thơ khảng khái
Đặng Dung là người có chí lớn, trung thành với nhà Trần, với đất nước,
Đặng Dung (Can Lộc, Hà Tĩnh) là người có chí lớn, trung thành với nhà Trần, với đất nước, đã để lại cho đời sau bài thơ Thuật Hoài đầy tráng khí, mãi được truyền tụng.
Đặng Dung là con Đặng Tất, người làng Thiên Lộc, huyện Phi Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh). Cha ông đã từng giúp Giản Định Đế nhằm phục hưng nhà Trần, chống lại quân Minh xâm lược, và đã đánh thắng tướng Minh là Trương Phụ ở trận Bô Cô nổi tiếng. Sau vì nghi kỵ Giản Định Đế đã giết cha ông, Đặng Dung tức giận vì cha bị chết oan, nên đem quân từ Thanh Hóa vào Thuận Hóa tôn Trần Quý Khoáng lên làm vua tức Trùng Quang đế nhà Trần. Ông được phong làm Đông Bình Chương sự (tể tướng thứ nhất).
Trong năm năm giúp vua Trùng Quang, ông nhiều lần cầm quân chống quân Minh. Một đêm tháng chín năm Quý Tỵ (1413), Đặng Dung đánh úp doanh trại của tướng nhà Minh Trương Phụ, suýt bắt sống được hắn. Sau vì thế cô, ông và bạn chiến đấu là Nguyễn Cảnh Dị, bị quân Minh bắt... Ông là người có chí lớn, trung thành với nhà Trần, với đất nước, mà việc lớn không thành, do đó, cảm khái viết trước lúc bị giặc hành hình một bài thơ mà người sau còn mãi mãi truyền tụng:
Thuật Hoài
Thế sự du du nại lão hà?
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Chí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiêu bạch
Kỷ độ Long Tuyền đái nguyệt ma.
Xin dịch là:
Nỗi lòng
Dằng dặc chuyện đời, biết tính sao!
Say cùng trời đất hát nghêu ngao.
Gặp thời kẻ mọn nên công dễ,
Vận lỡ anh hùng hận mấy tao!
Giúp chúa những mong giành đất cõi,
Tẩy binh khôn dễ kéo trời cao!
Quốc thù chưa trả đầu phơ tóc,
Trăng sáng mài gương mới độ nào!
Bài thơ đầy tráng khí. Chút ngậm ngùi càng tỏ rõ tâm trạng tha thiết của người viết. Tấm lòng vì dân, vì nước vằng vặc như trăng, sao, sáng giữa trời. Bởi thế mà nó được lưu truyền mãi cho hậu thế. Bởi vậy mà sử gia Ngô Sĩ Liên đã phải viết những lời bình trân trọng rằng: "Trận đánh ở Sái Già, Đặng Dung, Nguyễn Suý đem tàn quân trơ trọi chống lại thế giặc mạnh, quân tướng chúng đều tinh nhuệ. Dung nửa đêm đánh úp doanh trại giặc, làm cho tướng giặc sợ hãi chạy trốn, đốt hết thuyền bè, khí giới của chúng, nếu không thực sự có tài làm tướng, liệu có làm nổi thế không? Thế mà vẫn bại vong, đó là do Trời! Tuy thất bại, cũng vẫn vinh quang. Vì sao vậy? Bởi hiểu được cái lý không thể cùng giặc chung sống, phải tiêu diệt chúng. Do đó hết lòng đánh giặc, hết lòng giúp vua Trùng Quang khôi phục nhà Trần. Trong khoảng năm năm kiên trì chiến đấu với giặc, dẫu có bất lợi, nhưng ý chí không núng, khí thế càng hăng đến kiệt sức mới thôi: Lòng trung của ông dẫu trăm đời sau còn tưởng thấy được!".
Lời bình của sử gia thật xác đáng, luận anh hùng thời thế, đâu phải nhìn vào chuyện thắng thua. Còn như Đặng Dung hành trạng anh hùng nên khẩu khí trong thơ cũng thật oai phong, khí khái.
(S.t)
Đặng Dung là con Đặng Tất, người làng Thiên Lộc, huyện Phi Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh). Cha ông đã từng giúp Giản Định Đế nhằm phục hưng nhà Trần, chống lại quân Minh xâm lược, và đã đánh thắng tướng Minh là Trương Phụ ở trận Bô Cô nổi tiếng. Sau vì nghi kỵ Giản Định Đế đã giết cha ông, Đặng Dung tức giận vì cha bị chết oan, nên đem quân từ Thanh Hóa vào Thuận Hóa tôn Trần Quý Khoáng lên làm vua tức Trùng Quang đế nhà Trần. Ông được phong làm Đông Bình Chương sự (tể tướng thứ nhất).
Trong năm năm giúp vua Trùng Quang, ông nhiều lần cầm quân chống quân Minh. Một đêm tháng chín năm Quý Tỵ (1413), Đặng Dung đánh úp doanh trại của tướng nhà Minh Trương Phụ, suýt bắt sống được hắn. Sau vì thế cô, ông và bạn chiến đấu là Nguyễn Cảnh Dị, bị quân Minh bắt... Ông là người có chí lớn, trung thành với nhà Trần, với đất nước, mà việc lớn không thành, do đó, cảm khái viết trước lúc bị giặc hành hình một bài thơ mà người sau còn mãi mãi truyền tụng:
Thuật Hoài
Thế sự du du nại lão hà?
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Chí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiêu bạch
Kỷ độ Long Tuyền đái nguyệt ma.
Xin dịch là:
Nỗi lòng
Dằng dặc chuyện đời, biết tính sao!
Say cùng trời đất hát nghêu ngao.
Gặp thời kẻ mọn nên công dễ,
Vận lỡ anh hùng hận mấy tao!
Giúp chúa những mong giành đất cõi,
Tẩy binh khôn dễ kéo trời cao!
Quốc thù chưa trả đầu phơ tóc,
Trăng sáng mài gương mới độ nào!
Bài thơ đầy tráng khí. Chút ngậm ngùi càng tỏ rõ tâm trạng tha thiết của người viết. Tấm lòng vì dân, vì nước vằng vặc như trăng, sao, sáng giữa trời. Bởi thế mà nó được lưu truyền mãi cho hậu thế. Bởi vậy mà sử gia Ngô Sĩ Liên đã phải viết những lời bình trân trọng rằng: "Trận đánh ở Sái Già, Đặng Dung, Nguyễn Suý đem tàn quân trơ trọi chống lại thế giặc mạnh, quân tướng chúng đều tinh nhuệ. Dung nửa đêm đánh úp doanh trại giặc, làm cho tướng giặc sợ hãi chạy trốn, đốt hết thuyền bè, khí giới của chúng, nếu không thực sự có tài làm tướng, liệu có làm nổi thế không? Thế mà vẫn bại vong, đó là do Trời! Tuy thất bại, cũng vẫn vinh quang. Vì sao vậy? Bởi hiểu được cái lý không thể cùng giặc chung sống, phải tiêu diệt chúng. Do đó hết lòng đánh giặc, hết lòng giúp vua Trùng Quang khôi phục nhà Trần. Trong khoảng năm năm kiên trì chiến đấu với giặc, dẫu có bất lợi, nhưng ý chí không núng, khí thế càng hăng đến kiệt sức mới thôi: Lòng trung của ông dẫu trăm đời sau còn tưởng thấy được!".
Lời bình của sử gia thật xác đáng, luận anh hùng thời thế, đâu phải nhìn vào chuyện thắng thua. Còn như Đặng Dung hành trạng anh hùng nên khẩu khí trong thơ cũng thật oai phong, khí khái.
(S.t)
Nguồn:quehuongonline.vn Copy link