A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Chúa vị nể, dân kính trọng

Nguyễn Văn Giai rời quê, đi nhiều nơi, ra tận Thăng Long vừa kiếm sống, vừa tìm thầy để học. Năm 18 tuổi, ông thi đỗ Hương cống. Nhưng bấy giờ, miền đất phía ngoài nhà Mạc chiếm.

Cũng như một số Nho sĩ thời đó, ông Giai không muốn ra làm quan phục vụ triều Mạc, cho rằng họ Mạc là kẻ thoán đoạt ngôi của vua Lê. Quan niệm trên đã hình thành ở ông Giai từ nhỏ.

Chuyện kể ngay hồi còn ở nhà, Nguyễn Văn Giai đã tỏ thái độ bất bình đối với những kẻ phò Mạc. Bấy giờ ở cùng làng có ông Phan Đình Tá, đỗ Hoàng giáp năm Cảnh Thống thứ 2 (1499), làm tới chức Thượng thư dưới triều Mạc. Ông Tá là người đã mang sắc phong cho Mạc Đăng Dung và thảo tờ chiếu của vua Lê nhường ngôi cho họ Mạc. Trong nhà thờ họ Phan có bức đại tự đề: ''Lưỡng triều Tể tướng'' (ý muốn chỉ ông Tá cả hai triều Lê, Mạc đều làm Tể tướng). Nguyễn Văn Giai phản ứng, bèn đề lên cánh diều của mình bốn chữ: ''Thiên cổ tội nhân" (nghĩa là ''người có tội nghìn đời'') để lên án việc ông Tá phò Mạc.

Bởi thế, sau khi trúng khoa thi Hương ở Sơn Nam, Nguyễn Văn Giai không chịu dự thi Hội do triều Mạc tổ chức. Mãi đến năm Canh Thìn, niên hiệu Quang Hưng thứ 3 (1580), ông mới dự khoa thi Hội do triều Lê - Trịnh mở ở Thanh Hóa và đã đỗ Hoàng giáp.

Sau khi chiếm đại khoa, Nguyễn Văn Giai được bổ vào viện Hàn lâm, rồi vào Ngự sử đài, giữchức Đô ngự sử. Bấy giờ thế nhà Mạc đang rất mạnh. Chúa Trịnh Tùng cầm quân đánh mấy trận đều thất bại, binh sĩ nao núng. Tương truyền, một đêm chúa nằm mơ thấy mình vẽ mặt trời không đựơc, bỗng có vị thần đến mách: muốn vẽ được phải tìm Nguyễn Công và đọc cho nghe một bài thơ, câu cuối có chữ "Thiên Lộc chỉ huy". Tỉnh dậy, chúa sực nhớ đến Nguyễn Văn Giai, người Thiên Lộc, bèn cho vời ông đến cùng dự bàn việc quân.

Năm 1592, trong trận Đường Nang (Quảng Xương, Thanh Hóa), ông ngồi chung voi với chúa Trịnh Tùng. Quản tượng bị quân Mạc giết chết, ông liền thay chân quản tượng thúc voi tiến đánh, khiến quân Mạc đại bại.

Trong hai năm 1596-1597, sứ nhà Minh bên Trung Quốc tìm cớ cho rằng họTrịnh giả danh phù Lê, nên đến tận biên giới nước ta hoạnh họe, sách nhiễu. Nguyễn Văn Giai được cử lên Lạng Sơn giao dịch với sứ Minh. Có lần đoàn sứ bị kẻ làm phản tập kích. Mấy viên tướng hộ vệ, có quân lính trong tay, mà kẻ phải bỏ chạy, kẻ thì bị giết. Riêng ông Giai tay không, nhưng nhờ vào mưu kế khôn khéo, biết dựa vào vách núi làm nơi che chắn, nên thoát nạn.

Làm việc nơi công đường, ông Giai luôn giữ đúng mẫu mực, kỉ cương, xét xử các vụ kiện không chút thiên vị, nể nang, việc triều chính nhất nhất tuân theo phép nước. Song, trong cuộc sống đời thường, ông lại rất bình dị, chan hòa, người dân dễ gần gũi, trò chuyện.

Thời ở Kinh, ông giữ chức quan đầu triều, có ngựa xe đưa đón. Song nhiều khi ông thích đi bộ để rẽ vào các chợ, thôn xóm... xem dân tình làm ăn, sinh sống ra sao. Một lần từ triều về, đi qua chợ Cửa Đông ở Kinh, ông thấy người dân bán con cá thời ngư lớn, là loại cá nước ngọt, thịt trắng và thơm ngon. Ông dừng lại hỏi chuyện, rồi buột miệng khen cá ngon. Khi về đến nhà, đã thấy người đem cá đến đứng ở cổng. Nhưng cá đã được cắt ra từng khúc. Ông đùa, bảo đem chắp lại cho xem, thì thấy thiếu mất khúc đuôi. Hỏi ra mới biết khúc cá đó đã được bán cho bếp nhà chúa. Sự việc trên chứng tỏ người dân rất quý mến và gần gũi với ông.

Thời kỳ ông giữ chức Hiến sát sứ Thanh Hoá, nhân dân nơi đây còn truyền nhau câu chuyện kiện cáo giữa hai thôn Thọ Giáp và Ngũ Giáp về việc tranh chấp ruộng đất. Đơn kiện đến tay ông. Ông đã về tận nơi tìm hiểu, biết rõ hư thực, đúng sai, bèn cầm bút phê vào đơn hai câu thơ:

Ngũ Giáp căn bản chi nguyên
Thọ Giáp kí sinh chi mộc

(Nghĩa là: ruộng đất của Ngũ Giáp vẫn giữ nguyên như xưa, còn Thọ Giáp mới đến ngụ cư thì vẫn nhờ vào ruộng đất của Ngũ Giáp như trước, như cây kí sinh vậy)
.
Tác phong khoáng đạt, dân dã của Nguyễn Văn Giai đã được phản ánh ở một số bài thơ có tính chất trào phúng, dân gian, mà người đời cho rằng ông là tác giả. Chẳng hạn, bài thơ ''Nói khoác'' sau đây tương truyền là do ông sáng tác:

Ta con ông Trạng, cháu ông Nghè
Nói khoác trên trời, dưới đất nghe
Sức khỏe Hạng Vương cho nửa đấm
Cờ cao Đế Thích chấp đôi xe
Vượt ngay ra bể neo thuyền lại
Tốc thẳng lên non bắt cọp về
Mai mốt đem quân vô phủ Chúa
Ra tay diệt Mạc để phù Lê

Nguyễn Văn Giai rất được vua Lê và chúa Trịnh trọng vọng. Năm 1617, ông giữ chức Thiếu phó, là bậc đại thần hàng thứ hai trong triều. Năm 1623, ông nhận mệnh vua mang sách vàng phong cho chúa Trịnh Tráng làm Nguyên soái thống quốc chính Thanh Đô Vương. Sau đó, ông được phong Thái phó, phẩm trật xếp bậc thứ nhất của triều đình. Ông trải qua ba đời vua là Thế Tông, Kính Tông, Thần Tông và bốn đời chúa là Trịnh Tùng, Trịnh Tráng, Trịnh Giang và Trịnh Kiều.

Tuy đường công danh của Nguyễn Văn Giai đã tột bậc, dài lâu, song lại nằm trong giai đoạn ba họ Mạc, Lê, Trịnh tranh giành ngôi báu, gây nên các cuộc nội chiến, khiến đất nước rơi vào cơn binh lửa, nhân dân vô tội chịu bao đau khổ, chết chóc. Vì thế ông luôn mang trong lòng nỗi day dứt, buồn chán, thể hiện rất rõ trong bài thơ tứ trào do ông sáng tác vào năm 70 tuổi như sau:

Ba vua bốn chúa bảy thằng con
Trên chửa lung lay, dưới chửa mòn
Công nghiệp không thành sinh cũng hổ
Quan tài sẵn đó chết thì chôn
Giang hồ lang miếu trời đôi ngả
Bị gậy cân đai đất một hòn
Cũng muốn sống thêm mươi tuổi nữa
Sợ ông Bành Tổ tống đồng môn

Ngày nay, ở đền Đồng Cổ còn giữ được tấm bia có bút tích của ông Giai. Văn bia do ông soạn từ trước, nhưng bia được dựng vào năm Thịnh Đức thứ 4 (1656), 28 năm sau khi ông qua đời. Văn bia gồm khoảng 1300 chữ, trong đó có bài minh 56 câu, mô tả vị trí, cảnh quan, sự tích vị thần và việc trùng tu đền Đồng Cổ. Cảnh trí vùng đất này thuở đó được ông Giai ghi lại như sau:

... Sông Mã đông quanh lượn
Ngòi Thung bắc chảy về
Người bốn phương qua lại
Vui rầm rập bước đi
Khách trăm nhà buôn bán
Bao xe ngựa chẹn chân
Núi chầu quanh sau trước
Đò qua lại đêm ngày.
Đủ non xanh nước biếc
Phong cảnh đẹp xinh thay!...

(Bùi Xuân Vỹ dịch)

Trên vách ngọn núi đá ở Đan Nê còn thấy văn bia do dân làng sở tại khắc năm 1899, có câu ghi nhận công đức của ông Nguyễn Văn Giai và vùng này vẫn còn truyền tụng mấy câu ca biết ơn ông:

Công đức chùa này của cụ Giai
Nhân dân Nam Bắc đến Đông Đoài
Đâu đâu cũng được nhờ ơn Phật
Tế độ muôn người chẳng sót ai

Trong sách Thiên Lộc huyện chí, tác giả Lưu Công Đạo, đỗ Cử nhân khoa Quý Dậu, đời Gia Long thứ 12 (l813), đã đánh giá về Nguyễn Văn Giai như sau:

''Trải đời làm quan, ông đã lần lượt thờ ba triều vua... Ngồi chiếu Tể phụ suốt 29 năm, nắm giữ quyền sáu Bộ trong 12 năm, là một triều thần giữ chức vụ cao nhất mà chúa thượng không vì thế có sự nghi ngờ... Con cái ông đều thành đạt, quý hiển, thê thiếp được thụ phong, ông cha được ấm phong... Một đời vinh hiển tột bậc mà thiên hạ vẫn cho như vậy không có gì là quá đáng. Ông có những người con nuôi như Thái phó Tào quận công, Thượng thư Hải thọ hầu... nhưng đương thời không cho đó là kết bè, kết đảng. Ông giết đứa con thứ ba là Hùng Lĩnh hầu, nhưng người đời không cho đó là kiêu mãn. Tuy là bậc hiển quý, nhưng trong các buổi chầu, khi tâu bầy việc gì, ông không hề quên giọng nói gốc gác của làng quê, mà triều đình không vì thế mà cho đó là cử chỉ thô chướng khó coi... ý chừng trung để thờ trên, thuận để giữ mình, không xao xuyến đức tính trung thuận là xuất phát từ lòng tin ở đạo có phải vậy chăng? Nếu không như vậy sao lại thủy chung trọn vẹn, vinh thịnh đời đời tiếp nối, con cháu được hưởng thọ phúc dài lâu...''.

(Kho tàng giai thoại Việt Nam)


Tin liên quan

noData
Không có dữ liệu

Tin tiêu điểm

noData
Không có dữ liệu