Sự tích Tháp Báo Ân
Ngày xưa ở xã Bình Quân, huyện Cẩm Giàng, có vợ chồng phú ông sinh được một cô con gái. Cô xinh đẹp nhất làng, tính tình lại dịu dàng, hiền hậu. Nhân nhà có nuôi thầy cho con trai học, phú ông cũng cho con gái theo đòi nghiên bút. Cô rất thông minh, học chóng tấn tới, chẳng bao lâu đã thông kinh sách.
Nghe tin cô đẹp người, đẹp nết lại hay chữ, bọn con trai quanh vùng cũng đã có nhiều kẻ rấp ranh. Nhưng phú ông tự nhủ: " Con gái ta phải sánh duyên với người nào văn chương lỗi lạc, chứ về với bọn phàm phu tục tử thì thật là uổng phí xuân xanh" . Nghĩ vậy, có mấy đám con nhà giàu có và quyền quý cho người tới dạm hỏi, ông đều lắc đầu từ chối.
Cô gái càng lớn càng xinh, lại càng chăm học, thơ phú làm ra khó ai sánh kịp. Nhưng không ngờ thật là trớ trêu. Trong người cô mang một chứng bệnh mà thầy thuốc đều bó tay; đó là bệnh hủi. Trước cô còn giấu kín không cho ai biết. Nhưng ngày một ngày hai, những chỗ sưng thối lở loét bắt đầu hành hạ, cô không thể che mắt thiên hạ được nữa. Thấy bà con làng xóm xì xào về bệnh tình của cô con gái và cũng e ngại truyền nhiễm, phú ông đành phải làm một ngôi nhà bên cạnh đường nhưng xa làng để cho cô ở riêng biệt, chỉ thỉnh thoảng cho con hầu mang tới gạo muối, tiền nong cho cô dùng hằng ngày. Cứ như thế, cô gái xấu số nọ chịu nhận một cuộc sống cô đơn buồn bã đã hơn một năm.
Một hôm, có một thầy cử trẻ tuổi trên đường đi thi Hội. Vừa đi lọt vào lùm cây thì trời bỗng đổ cơn mưa, anh nhanh chân tìm một gốc cây để ẩn nấp. Nhưng trận mưa cứ kéo dài mãi đến tối. Cho nên vừa ngớt cơn mưa, anh phải vội vã ra đi tìm chỗ nghỉ trọ. Vừa hay bên cạnh đường, anh thấy le lói có ánh đèn, bèn chạy tới gọi cổng, không biết đấy là nhà cô gái hủi. Tiếng cô gái nói vọng ra:
- Ai đấy, hãy đi chỗ khác mà trọ, ở đây nhà cửa chật chội không ở được đâu!
Đứng ở ngoài cổng, thầy cử ta kèo nài:
- Tôi đây, xin làm ơn cho vào hơ nóng một tí, vì vừa rồi mưa ướt hết cả.
- Xin mời khách hãy gắng đi nữa sẽ có chỗ trọ, nhà tôi vắng vẻ, không tiện mời vào.
- Tôi là Cử nhân họ Trần đi thi Hội, vì làng xóm còn quá xa, xin cho nghỉ lại một tí, nếu không tiện thì tôi sẽ đi.
Thấy giọng có vẻ cầu khẩn, lại nghe khách tự xưng con nhà lễ giáo, cô gái bỗng động lòng thương, bèn ra mở cổng mời vào. Dưới bóng đèn, cô thấy khách là một chàng trai ngoài hai mươi tuổi, dáng người nho nhã, ăn nói lễ phép thì không nỡ từ chối, nên tươi cười, nói:
- Bố mẹ đi vắng, chỉ có mình thiếp ở nhà. Người xưa có nói: " Nam nữ thận trọng từ cái trao tay", mời chàng trọ ở đây thật là bất tiện. Nhưng nay chàng quả đi đường mệt nhọc và ướt át, chẳng dám khăng khăng giữ lễ, vậy mời chàng cứ nghỉ lại đây, có cần gì thiếp xin giúp đỡ.
Nói rồi, đốt lửa cho khách sưởi, lại thổi cơm mời ăn. Thầy cử thấy cô gái mặt mũi xinh đẹp, ăn nói khôn ngoan, tốt bụng, lại có vẻ con nhà có học, thì trong bụng lấy làm mến, bèn hỏi:
- Đa tạ cô chẳng nề phiền hà, hết lòng giúp đỡ, việc đó tôi không dám quên ơn. Tôi cũng không ngờ cô lại là kẻ theo nghiệp sách đèn. Chẳng hay cô là con cái nhà ai, bố mẹ làm gì?
Cô gái nói thật tất cả, trừ cái bệnh của mình.
Thấy cô gái học giỏi, thầy cử cùng cô xướng họa. Hai bên đối đáp với nhau đến khuya. Dần dần, từ chỗ yêu mến, thầy cử đâm ra bạo dạn, lại thấy chủ nhân một thân một mình, thầy bèn ngỏ lời đính ước. Thương thân tủi phận, cô gái rơi nước mắt, nói:
- Phận thiếp xấu số không đáng là kẻ nâng khăn sửa túi cho chàng. Xin chàng hãy để tâm vào việc thi cử trước mắt, sau nầy có gì cũng chưa muộn.
Thấy nàng sụt sùi, thầy cử không biết ẩn tình, bèn bước lại khuyên dỗ. Cuối cùng anh nắm lấy tay và đòi cầu thân. Cô gái tuy e lệ nhưng cũng không từ chối. Hai bên coi nhau như vợ chồng.
Sáng dậy, thầy cử vội ra đi cho kịp ngày thi. Khi hai bên từ giã, anh hẹn:
- Một lời vàng đá, thề quyết trăm năm. Xin nàng hãy chịu khó chờ. Chuyến này dù đỗ hay không, tôi cũng sẽ cậy người đưa sáu lễ đến rước nàng làm vợ.
Sau khi thầy cử ra đi, cô gái nghĩ đến số phận hẩm hiu thì lấy làm đau khổ. Cô tự nghĩ: " Ta may mắn được chàng thương tới, nhưng chàng đâu có biết ta bệnh hoạn khốn khổ thế này. Nếu chàng mà biết thì ta còn mặt mũi nào nữa, chẳng thà chết còn hơn" .
Suốt ngày hôm ấy, nàng vừa tưởng nhớ vừa tuyệt vọng. Trong một cơn phẫn chí đến cực độ, cô gái bỗng ngất đi, hồn lìa khỏi xác.
Sau đó mấy ngày, vợ chồng phú ông mới hay tin; cả nhà tới chỉ còn biết than khóc và an táng người bạc mệnh ở ngay trong ngôi nhà của nàng.
Lại nói chuyện thầy cử sau khi từ giã, đi luôn mấy ngày mới đến kinh kỳ. Hình ảnh cô gái tài hoa gặp nhau trong một đêm đầy tình nghĩa ái ân, choán hết tâm trí chàng trẻ tuổi. Vào trường thi, bài của anh làm rất trôi chảy. Nhưng khi vào kỳ cuối, bài " văn sách" đầu đề có phần hiểm hóc, nhưng cuối cùng anh cũng viết thành bài. Trở về quán trọ, anh mới nhớ là mình đã viết sai mấy chỗ. Anh lắc đầu tắc lưỡi: Chết thật! Thế nầy thì con đỗ đạt thế nào được nữa.
Lúc ông chủ khảo chấm đến bài của anh thì thấy không thể đỗ được. Sắp hạ bút phê chữ " liệt" (kém) thì chủ khảo bỗng thấy tay mình như bị ai giữ cứng. Ông đành phải bỏ bút xuống bàn. Bỗng ông cảm thấy buồn ngủ ríu mắt. Chợp đi một lúc, ông mơ màng thấy có một cô gái rất xinh tiến đến trước mặt, chắp tay vái lia lịa và nói:
- Đây là quyển thi của chồng tôi, xin Ngài làm ơn rộng bút cho.
Tỉnh dậy, chủ khảo lấy làm lạ, bèn đọc lại bài văn một lần nữa, thì cũng thấy không thể đỗ được. Toan cầm bút phê thì quản bút tự nhiên rơi xuống đất, ông chưa kịp nhặt lên thì bỗng lại chợp đi, bóng cô gái lúc nãy lại hiện ra trước mặt, một hai xin hãy vớt quyển văn ấy. Ông bèn hỏi:
- Nàng ở đâu?
- Tôi là con gái họ Nguyễn, quê quán xã Bình Quân, huyện Cẩm Giàng...
Thế rồi, bóng cô gái lại biến mất. Chủ khảo giật mình tỉnh dậy. Ông hết sức ngạc nhiên, miệng lẩm bẩm:
- Quái lạ, nhà thí sinh nầy hẳn có một âm công gì đây, nên âm hồn theo từ xa đến để báo, ta cũng không nỡ thẳng tay. Nghĩ vậy, cuối cùng ông cũng lấy vớt cho đỗ.
Hôm thầy cử - bây giờ đã là quan tân khoa - cùng các bạn đến chào chủ khảo, thì ông nầy lưu một mình tân khoa ho. Trần lại, đoạn hỏi anh:
- Anh đã có vợ chưa?
Anh đáp:
- Thưa chưa.
- Thế nhà anh có làm " âm công" gì không?
Anh lắc đầu:
- Tôi không nghe ai nói gì, chắc là chẳng có.
Chủ khảo bèn kể cho nghe về một cô gái hai lần báo mộng trong khi chấm bài, sau nầy ráp " phách" lại mới biết đó là bài của anh, rồi nói:
- Anh đáng lý không được đỗ vì bài " văn sách" làm kém, được đỗ cũng nhờ cô gái ấy.
Nghe đoạn, anh ngẫm nghĩ hồi lâu, nhưng cũng không hiểu ra thế nào cả, đành nói ít lời cám ơn rồi cáo từ ra về.
Lần vinh quy ấy, quan tân khoa họ Trần nhắn người nhà phải sắm thêm một cái võng thứ hai. Anh dự định khi đoàn về ngang ngôi nhà của người yêu thì đón nàng về luôn thể " vinh quy cùng với vu quy một ngày" . Không ngờ khi mở cổng bước vào, đã thấy một ngôi mả mới nằm ở giữa nhà. Anh giật mình tưởng như có gáo nước lã giội vào lưng, nghĩ rằng lần trước mình gặp phải ma. Lập tức anh cho người nhà đi dò hỏi. Người nhà trở về báo cho anh biết đó là mả cô gái con nhà phú ông, nhưng bị hủi phải ở riêng tại đây, chỉ mới mất trong vòng nửa tháng nay. Bấm đốt tay, anh mới biết người yêu mất sau khi mình đi một ngày. Sực nhớ tới câu chuyện kể của chủ khảo, anh hết sức thương cảm,miệng lẩm bẩm:
- Như thế là hồn nàng đã theo ta đến kinh kỳ để giúp ta khỏi bị đánh hỏng.
Sau khi việc vinh quy đã xong, anh tìm đến nhà phú ông kể hết mọi việc, rồi nói:
- Mặc dù nàng đã chết, cũng xin ông cho tôi được làm rể, vì một ngày cũng là nghĩa.
Phú ông không ngờ có chuyện lạ lùng như thế, chối từ không dám nhận. Nhưng vì quan nghè nói mãi, cuối cùng ông đành phải vâng lời. Bây giờ anh mới sắm sửa một lễ tế trọng thể đưa đến nhà nàng lấy danh nghĩa chồng tế vợ. Lại thuê thợ xây bên cạnh mả một cái tháp, trong lòng tháp có mấy chữ: " Cô Nguyễn Thị... là vợ của Tiến sĩ họ Trần" .
Dân quanh vùng vẫn gọi tháp ấy là Tháp Báo Ân