A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Hà Nội Việt Nam…

Tôi rời sân bay Tân Sơn Nhất một ngày hè nắng rất gắt, chói chang, không hề nghĩ rằng, không hề biết rằng, có một ngày nào đó, sẽ có dịp đáp máy bay về…Hà Nội. Hà Nội, xa xôi như một nước lạ, khi ấy. Bắc Nam ngày ấy là một sự xa cách và ngăn cách.



Trong Sài Gòn, mỗi khi cưới hỏi, tôi thường nghe hỏi, cô dâu, chú rể người gì? Bắc kỳ cũ, Bắc kỳ di cư, Bắc kỳ mới, hay người "mình"? Đó là hậu quả để lại kể từ thời Pháp thuộc chia mảnh đất Việt Nam thống nhất của vua Nguyễn Gia Long ra làm ba miếng thịt ngon, Bắc kỳ (Tonkin), Trung kỳ (Annam) và Nam kỳ (Cochinchine), và cái mốc lịch sử năm 1954.

Thế hệ chúng tôi trong Sài Gòn nói tiếng Việt giọng nửa Bắc nửa Nam. Tình hình chiến tranh suốt mấy mươi năm đằng đẵng cũng làm cho mọi di chuyển khó khăn, ít có ai dám nghĩ đến việc đi "du lịch", đi chơi trong nước. Có việc gì quan trọng cùng cực phải đi thì mới đi. Thậm chí từ Sài Gòn ra Huế cũng đã thấy xa xôi vạn dặm, như đi xứ lạ quê người. Kỷ niệm tuổi thơ loanh quanh trong mấy chữ Sài Gòn, Cấp, Đà Lạt. Kể chuyện này cho một người bạn học cũ, bên Đức, tôi học được thêm từ anh ấy một chữ mới: Hóa ra cô là "tạch tạch sè", được đi Cấp đi Đà Lạt! Tôi ngạc nhiên quá chừng, anh ấy học chữ ấy ở đâu ra? "Tạch tạch sè" là "tiểu tư sản". Sau đó, khi vào trường, phải học lý thuyết kinh tế của ông Mác, ông Keynes…tôi mới hiểu, thế nào là tư sản và vô sản theo các cụ. Mấy chục năm qua rồi, gặp lại người bạn cũ, tôi nhắc câu "tạch tạch sè", anh ta không còn nhớ chuyện ấy nữa. Vậy cũng hay, quên quá khứ để hướng đến tương lai.

Cách đây vài năm, đầu đã hai thứ tóc, lần đầu tiên về Hà Nội với chồng tôi, tôi nhắc đi nhắc lại mấy lần với anh ấy rằng tôi không biết gì về Hà Nội cả đâu nhé, vì anh ấy cũng biết đến từ ngữ "bức màn sắt" của thời gian chiến tranh Việt Nam sau 1954. Nhưng Hà Nội hiện ra trước mắt êm ả. Người Hà Nội rất lịch sự lễ phép, vui vẻ, bắt chuyện cởi mở. Xin lỗi nhé, về Hà Nội tôi có cảm tưởng như mình về "Việt Nam", thân quen như ở Sài Gòn.

Dạo còn trẻ, bạn bè hỏi tôi quê quán ở đâu, tôi vui miệng vô tư trả lời: Miss Saigon! Đặt chân đến Hà Nội, cảm giác đầu tiên của tôi là thực tế Hà Nội đang diễn ra trước mắt, nó chạy song song với những hoài niệm về lịch sử trong đầu. Cũng những ngã tư xe cộ đan qua chéo lại với nhau, tuy có thưa thớt hơn, có êm ả hơn, cũng những người phụ nữ buôn gánh bán rong trên mọi đường phố, cũng hai cha con ngồi bắt chí trên đầu cho nhau thanh thản… bên bờ một Hồ Gươm "vẫn lung linh mây trời…", như ở một công viên nào đó trong Sài Gòn, cũng những đôi uyên ương diện rất đẹp đi chụp hình ngày cưới… Nhưng đây là tháp Rùa, đây là gò Đống Đa, đây là đền Hai Bà Trưng, đây là cầu Long Biên ngang qua bãi sông Hồng…, "Thằng Bò, cái Lớn, cái Bé… anh phải sống!"... những cái tên quen thuộc, đã được chép đi chép lại trong lịch sử Việt Nam, làm cho lịch sử bỗng thấy gần lại. Cảm giác này tôi cũng có khi về Huế, đi thăm một vài lăng tẩm của các vua nhà Nguyễn, hay về làng Mỹ Lai của một miền Trung… "nghèo lắm ai ơi…".

Mức độ xây dựng của Hà Nội cũng đang nhộn nhịp, nhiều công trường, nhiều thay đổi. Cái cũ hôm qua, như các khu phố cổ, các khu nhà tập thể tường vôi ẩm ướt mầu loang lổ, các con đường chằng chịt hàng bó dây điện lòng thòng toòng teng, các cột đèn, miệng cống cả trăm tuổi đời…quyến rũ tôi hơn là những cái cao ốc mới tinh đang lên, muốn chọc cả trời.

Chúng tôi ở khách sạn hai sao, phòng có giá từ 20/35 đô la một đêm hai người ngay trong phố cổ (giá khác nhau tùy theo tầng dưới tầng trên để khỏi phải leo bộ lên năm sáu tầng cầu thang mỗi khi đi về). Chẳng phải là khách sang trọng gì, nhưng được tất cả mọi người trong khách sạn đón tiếp rất niềm nở, sáng nào cũng một bát phở, trưa nào cũng được một đĩa trái cây tươi, mỗi ngày một phích trà sen nóng, và những tiếng chào "Cô ạ" dễ thương.

Không thể đi thăm hết Hà Nội trong một vài ngày được, Hà Nội còn khá nhiều di tích cổ, và cũng chỉ có giao tiếp loanh quanh với những người dân thường buôn bán, dịch vụ du lịch. Chúng tôi thích đi lòng vòng khu Hồ Gươm, khám phá ba sáu phố phường (nay gọi là phố cổ) Hà Nội. Giọng "Hà Lội" nghe vui vui, rất hồn nhiên, vô tư. Các bà cụ Hà Nội vẫn còn hàm răng hạt na đen nhánh, vấn khăn vành, đội thêm khăn "mỏ quạ" bằng nhung đen khi tiết trời khá lạnh, khách lạ đi ngang cứ như là khách đã quen lâu, "Cụ cho con chụp một tấm ảnh?", là cứ chụp.

Gần chân cầu Long Biên, tôi bắt gặp một bà cụ tóc bạc phơ ngồi trước một hiên nhà, mải miết vuốt từng cái bao rác, moi ra từ những bao rác thật to, cho phẳng phiu. Một người đàn ông đứng gần đó cản tôi không cho chụp hình, anh phân bua bà cụ ấy mất trí rồi, nhưng để cụ ở nhà, cụ vẫn sung sướng hơn là cho cụ vào nhà dưỡng lão. Tôi nghĩ rằng anh ấy có lý.

Tôi thường nhớ đến hình ảnh hai bà mẹ già, một ở Việt Nam lang thang nhặt rác trên bãi biển ở miền Trung, và một đi bươi thùng rác trong đường hầm métro tại Paris. Người già và rác rưởi. Một hình ảnh rất xốn xang chua xót. Người con nào không biết thương mẹ thì không có thể thật tình thương một ai khác, một điều gì khác. Làm sao có thể quên, có thể làm ngơ, chín tháng cưu mang, bầu sữa căng tròn, những ngày đau ốm, những đêm thức trắng, những chuỗi năm tháng dài đằng đẵng lo âu của mẹ để con mau lớn, mạnh khỏe, thông minh, cắp sách đến trường, rồi trưởng thành, nên người, tự lập, thành công trong cuộc đời? Những người quên mẹ đều quên đi tất cả cuộc đời, họ chỉ biết có chính họ. Nói một cách khác, khi họ đối xử tệ hại với mẹ thì họ không thể tốt với đời, với người. Tôi còn nhớ câu nói của má tôi căn dặn tôi: "Con cư xử với mẹ như thế nào, thì con của con sẽ cư xử với con như thế ấy". Đó là kinh nghiệm của một thế hệ này sang thế hệ khác. Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn.

Không phải là cha không có "công" trong việc hình thành một con người. Nhưng hình ảnh "cha", người cha đứng đầu chèo chống con thuyền gia đình qua mọi cơn bão tố, bảo đảm kinh tế nuôi vợ nuôi con, đã thay đổi theo thời gian. Sức của mẹ, thầm lặng hơn, dai dẳng hơn, rộng lớn hơn, vì mẹ - vừa sinh đẻ, vừa nuôi nấng dạy dỗ con cái, lại vừa phải bảo đảm kinh tế gia đình, mẹ thường gần gũi với con cái hơn là cha. Không kể những năm tháng sửa soạn chiến tranh, trong chiến tranh, sau chiến tranh, những khoảng thời gian rất khó khăn, dài lê thê, để cưu mang cuộc sống, trong thiếu thốn, nguy khốn và cấp bách, người mẹ Việt Nam luôn luôn là một chỗ dựa vững chắc. Chồng tôi, trong những chuyến đi suốt từ Bắc chí Nam ở Việt Nam, thấy nơi đâu cũng có phụ nữ lao động, trên đồng, trên núi, trên sông, trên đường, trong chợ, trong bếp…, đàn ông ung dung nhàn hạ ngồi chơi đánh cờ, chơi thể tháo, đi dạo công viên… thì rất ngạc nhiên. Phụ nữ Việt Nam? Chapeau! (Kính phục!).

Một hôm, tôi đưa cho con tôi đọc một bài tôi mới viết về hội nhập và quê hương, con tôi cười, phê bình: Mẹ viết như thế này không ăn thua gì, trừu tượng quá, xa xôi quá. Xóa bỏ. Con tôi, sinh ra và lớn lên ở nước ngoài, đã lăn lóc trong suốt gần ba năm trời, bay ra bay vào Việt Nam để học múa dân gian tại trường múa ở Sài Gòn, đã từng đi suốt từ Bắc chí Nam với một người bạn Việt bằng xe lửa hạng ba, ngồi băng ghế gỗ muốn gẫy cả lưng, xe buýt, xe đò, xe đạp, hẳn có một cái nhìn khác tôi về phương cách trở về nguồn...

Phương cách, không cần phải nói tới mục đích, vì một khắc nào đó, con người sẽ tự động có nhu cầu tìm về cái cội của mình. Có thể trễ, có thể muộn, có thể ít, có thể nhiều nhưng chắc chắn là có. Con tôi nghĩ rằng, một bài báo, một đoản văn, một bài thơ, một bản nhạc về Việt Nam có sức quyến rũ người đã sinh trưởng và sống ở Việt Nam, nhưng ít tác dụng đối với thế hệ sinh ra và lớn lên ở nước ngoài. Các lễ hội ở nhiều nơi, trình độ tổ chức và trình độ trình bày lịch sử văn hóa hay, dở, màu mè rực rỡ... khác nhau, có thể là một phương cách chung chung thu hút khách du lịch nước ngoài, nhưng chưa hẳn là một "bài thuốc" hiệu nghiệm để đưa những người có chút dòng máu Việt Nam lá rụng về cội. Quá kịch tính, quá sơ khởi lại gây ra một tác dụng ngược với chủ đích, ý muốn. Không kể đến những tình trạng không đẹp xảy ra trước mắt mọi du khách đến từ phương xa, chen lấn, xô đẩy, xả rác bừa bãi, móc túi, giật xách tay, ba lô… trong các lễ hội.

Một chuyến đi về Việt Nam, kết bạn với người trẻ tại Việt Nam, ăn bờ ngủ bụi trên hàng ghế gỗ cứng bể lưng của con tàu lắc lư xuyên Việt suốt hai ngày đêm, thú vui ăn uống với bạn bè trên mọi vỉa hè, đầu hẻm, len lỏi mua bán, trả giá trong những chợ đầy ắp người, đầy ắp hàng hóa, đạp xe đạp trên những nẻo đường làng quê, lim dim bồng bềnh trên chiếc thuyền con thả trôi trên con sông nhỏ yên tĩnh, những đêm cùng nhau nghe nhạc ồn ào điếc cả tai qua đêm về sáng, nổ một tràng cười sau khi bị sửa lưng, bập bẹ xưng "con" với người yêu mới quen…, đó là những ấn tượng không quên đưa con người trẻ xa quê trở về, đến gần Việt Nam, hiểu thế nào là Việt Nam, hiểu thế nào có cha hay mẹ là người Việt Nam.

Thế hệ người Việt trẻ ở nước ngoài cũng có lợi thế, là không bị đa mang nhiều thành kiến Nam Bắc Trung, Việt Nam là Việt Nam. Nhưng "Ngàn năm Thăng Long" đối với con tôi còn xa vời quá. Lỗi tại tôi chăng? Ngàn năm Thăng Long đối với tôi cũng còn là một điều khỏi tầm tay với, không có điều kiện tham dự.

Khi bàn về lịch sử cận đại, nhiều người còn chê trách nhà Nguyễn. Cho dù Tam kiệt Tây Sơn có công rất lớn, Gò Đống Đa (phố Tây Sơn, quận Đống Đa, Hà Nội) còn đó, nhưng không phải dễ đâu tự nhiên mà có một đất nước thống nhất của thời đại Nguyễn Gia Long, hay ngày hôm nay, cứ leo lên máy bay là bay Hà Nội – Sài Gòn – Sài Gòn - Hà Nội. Tự do di chuyển là một trong những tự do cơ bản nhất của con người. Ba tôi có lần nói: "Chúng bay sướng mà không biết sướng, bây giờ cứ leo lên máy bay, muốn đi đâu thì đi, thời tao, đi từ Bắc vào Nam như đi từ thế giới này sang thế giới kia, phải có giấy thông hành, một đi không về! Xa xôi quá, ngăn cách quá!".

Nghĩ về Hà Nội, tôi nhớ ra nhiều điều đã học trong sách vở, Thăng Long, Lý Công Uẩn, Đống Đa, Quang Trung, Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Pierre Poivre, Francis Garnier, Henri Rivière, Henri Navarre, B52, Jane Fonda, sông Hồng, Long Biên, nạn đói Ất Dậu, 1945, 1954….

Hà Nội ngày nay, nếu so về lượng, thủ đô của cả nước Việt Nam với hơn 86 triệu dân, thì tầm cỡ đã lớn hơn Thăng Long thành ngày xưa nhiều lắm. Nhưng còn về ý nghĩa, Hà Nội ngày hôm nay, tôi liên tưởng đến hai khúc quanh lịch sử rất quan trọng, hai thời điểm mấu chốt, đó là thời Tự Đức, năm 1883, và thời Đệ nhị thế chiến đi vào kết thúc, năm 1945, đang đứng trong bối cảnh lịch sử của toàn cầu hóa kinh tế tư bản đã đi vào giai đoạn thực hiện tích cực từ hơn ba chục năm nay, khủng hoảng kinh tế, chính trị toàn cầu đang diễn ra và chưa chấm dứt, trong hoàn cảnh mới với những thử thách sôi động cấp bách tại biển Đông, trước những hậu quả lâu dài về môi trường sống và về quân sự trên cao nguyên miền Trung và trên sông Cửu Long (Mékong)… cũng như đang thật sự đứng trước một khúc quanh lịch sử mới. Các quyết định hôm nay sẽ mang lại một ngã rẽ với những hậu quả xấu hay tốt cho các đời sau, vì lãnh đạo không đồng nghĩa với cai trị, và sáng suốt không đồng nghĩa với thiển cận mù quáng. Đó thật là một vấn đề rất cấp bách, rất quan trọng. Việt Nam phải có nhiều thay đổi cụ thể hơn, để có thể tái tạo những khi cần thiết, tinh thần "ba cây chụm lại nên hòn núi cao" của dân chúng, để gìn giữ Hà Nội, Huế, Sài Gòn cho các đời sau, và cũng để giữ gìn tình cảm đặc biệt của những dân tộc nước ngoài dành cho Việt Nam như trong những năm từ 40, 50 cho đến 70.

Gustav Walter Heinemann, vị Tổng thống thứ ba của nước Cộng hòa Liên Bang Đức từ năm 1969 đến 1974 đã phát biểu một câu nổi tiếng: "Ich liebe nicht den Staat, ich liebe meine Frau". (Tôi không yêu nhà nước, tôi yêu vợ tôi), để nói lên cái ưu tư, cái tình cảm hay cái  tình người nhớ về quê hương không có gắn bó, không có liên hệ đến một cơ quan, một thể chế chính trị, một địa vị hay một chức năng quyền lực. Mỗi khi đi đâu gặp người Việt Nam, đọc trên mạng… về tình hình của người Việt khắp nơi trên thế giới, tin vui có, tin buồn có, tin bức rứt có… nhưng tựu chung, phải vui vì một điều duy nhất, hình như ở đâu đâu cũng có người Việt, còn nhớ về Hà Nội, Sài Gòn, luôn cả Huế. Hà Nội, có phải chăng là một "Hà Nội niềm tin và hy vọng"? Cho tôi bỏ ngỏ một câu hỏi nơi đây.

©MathildeTuyetTran, France 2010

www.tuyettran.de


Nguồn:quehuongonline.vn Copy link

Tin liên quan

noData
Không có dữ liệu

Tin tiêu điểm

noData
Không có dữ liệu