Cái bánh khúc và hai chữ “Việt kiều”
Mùa nắng, cái nắng ban trưa ở Sài Gòn thì khỏi nói. Nắng cháy da, đi, đứng, ngồi, nằm không yên. Một lớp quần áo mỏng trên mình, nhơm nhớp mồ hôi và bụi làm khó chịu. Thành phố đi ngủ buổi trưa. Ai cũng kiếm một tí bóng mát, ngả lưng, không động đậy, càng cử động lại càng toát mồ hôi. Lá cây không rung, trời không quạt gió, lại càng nóng thêm. Những người bán rong ngoài đường, kiếm một chỗ có bóng râm, mặt đường hắt nắng, bốc nóng hầm hập, nhưng họ cũng dựa tường nhà người tìm chút hơi mát còn đọng lại trong lớp gạch vôi, lim dim chợp mắt.
“Bánh khúc đây! Khúc nóng đây…”. Tiếng rao của ông bán bánh khúc đánh thức cả đường phố, và ai cũng biết đã khoảng ba giờ trưa. Ông ta thường đến khu phố nhà tôi vào khoảng giờ ấy. Tay dắt chiếc xe đạp, miệng rao rõ to, trên phần “poọc ba ga” (porte-bagage) một cái nồi to như cái chõ xôi nấu cỗ đựng bánh khúc đặt trên một cái chậu nhôm đã được “cải tiến” thành bếp lưu động, trong đựng một ít than, tuy không còn đỏ lửa nữa, nhưng vẫn nóng, đụng vào là phỏng tay. Má tôi thích ăn bánh khúc, thường mua cho cả nhà ăn. Ông bán bánh khúc người cao, gầy, khuôn mặt xương xương sạm nắng, còn có vẻ tráng kiện lắm, nói giọng Bắc đặc, cứ vài ba hôm lại đạp xe đạp, không biết đi bao nhiêu đoạn đường, để đến bán cho má tôi vài cái bánh khúc, kiếm dăm ba đồng. Có lẽ không phải vì một món lợi to mà ông thường đến, mà vì gặp được người thích ăn bánh khúc. Nhà tôi ăn cơm sớm, 11 rưỡi chị bếp đã dọn cơm. Con nít như tôi thuở ấy, ăn thêm một cái bánh khúc lúc khoảng ba, bốn giờ chiều là no ứ hự đến tối. Bánh khúc tuy nhỏ, nhưng rất dinh dưỡng. Những hạt nếp trắng nở to, dẻo bên ngoài gắn trên một lớp vỏ bánh mỏng màu xanh, bên trong là nhân đậu xanh thịt mỡ, thật là một sáng tác độc đáo, tuyệt diệu, vừa có mỹ thuật, vừa ngon. Mùi thịt heo mỡ, đậu xanh bùi bùi, vỏ bánh mềm mại dẻo queo như… nếp, hương vị tiêu cay cay nồng nồng… vừa ăn vừa ngắm cái bánh, làm sao mà làm thành bánh có ba lớp ba màu trắng, xanh, vàng như thế này. Nhớ má tức là nhớ luôn những món ăn má thường ăn và nấu cho cả nhà ăn.
Từ cái bánh khúc tôi lan man nghĩ qua cuộc đời phiêu bạt, bánh khúc di cư từ Bắc vào
Nhân đọc một số bài viết mới gần đây về chủ đề “Việt kiều” của các trang mạng từ trong nước, tôi có vài suy nghĩ muốn góp ý đến các độc giả, trong và ngoài nước, gọi là một bài chỉ “thể hiện quan điểm của người viết”.
Trong các danh từ mới xuất hiện trong ngôn ngữ Việt
Hiện nay tại Đức, cơ quan hành chánh quy tất cả người ngoại quốc sinh sống thành một nhóm để quản lý gọi là “Auslander” (người nước ngoài). Từ này thường được dân chúng sử dụng với một ẩn ý tiêu cực, mang tính chất kỳ thị. Thành phần “Auslander” tại Đức được phân ra làm năm nhóm có thứ tự ưu tiên khi xin nhập cảnh hay cư trú:
Tại Pháp, cũng tương tự, người ngoại quốc sinh sống ở Pháp được gọi chung là “les etrangers”, từ này cũng mang một ẩn ý tiêu cực. Người Pháp, khi nói “les Việt”, là
Ngược lại, tình trạng của người Việt trong nước và người Việt ngoài nước còn có nhiều điểm khác biệt, nếu không muốn nói là “kỳ thị”.
Từ ngữ “kiều” có nhiều cách viết và nhiều nghĩa khác nhau trong chữ Hán. Tra trong tự điển Hán Việt trên mạng, tôi tìm thấy hai giải thích.
侨胞 - Kiều bào: Đồng bào trú ngụ ở nước ngoài.
侨民 - Kiều dân: Người nước ngoài đến cư ngụ trong nước.
Anh Nguyễn Phụng, một người bạn rành chữ Hán, giải thích:
1- Kiều thuộc bộ Nhân: Qiao, 僑 (viết theo cách cũ), 侨 (viết theo cách mới), ở ngoại địa, nước ngoài.
2- Kiều hay cầu (pont), bộ mộc: Qiao, 桥 (viết theo cách mới), kiều lộ
3- Kiều, 乔, nằm trong bộ khẩu trong cách viết cũ: nghĩa là cao (cây cao), họ Kiều
4- Kiều, 娇, Jiao, bộ nữ: kiều diễm
5- Kiều, 荞, qiao, bộ thảo: tên cây kiều mạch
6- Kiều, 翘, qiao, bộ vũ: trong chữ thuý kiều, một thứ trang sức đầu của phụ nữ.
Sử dụng trong tiếng Việt bằng các từ ngữ Hán-Việt, chữ “kiều” có thể dùng như động từ: kiều cư (résider à l’étranger); danh từ: như kiều hối (mandat expédié par de émigrants), kiều vụ (affaires concernant les ressortissants), kiều dân (émigrants), kiều bào (compatriotes d’outre mer).
“Việt kiều” là một danh từ ghép Hán Việt, có nghĩa nôm na là người Việt đi ở nơi khác, ở nước ngoài. Đặc biệt, chỉ có người Việt trong nước chỉ người Việt ngoài nước là “Việt kiều”.
Tiếng Việt tinh tế lắm. Thí dụ như hai chữ thông dụng “Cám ơn”, nghe thì lịch sự, lễ phép, nhưng ”Cảm ơn” thì ân cần hơn, tha thiết hơn. “Cảm ơn nhé” thì lịch sự hơn là “cảm ơn nhá”, hay “cảm ơn nhe”. Bởi thế, chữ “Việt kiều” nghe sao khinh mạn ruồng rẫy, khác hẳn với phong cách “kiều bào” cũng như khác hẳn cụm từ “người Việt Nam tại nước ngoài”. Chẳng thế, có người than vãn ”Việt kiều là núm ruột… thừa!”. Nhưng có than, tức là có cảm thấy bị tổn thương, và mong muốn thấy một sự thay đổi.
Qua các bài báo “Từ Việt kiều đến “ngôi” Hoàng kiều” của Hiệu Minh (1) và hai câu trong bài vừa khinh miệt ….“Câu ca muôn thuở "mỡ nó rán nó”, vừa mỉa mai “Nói đến Việt kiều ai cũng nghĩ đó là những người giầu có, sang trọng, học thức đầy người. Rất nhiều đã thành đạt nơi xứ người, mang lại vẻ vang cho người gốc Việt…”, hay “Mỏ vàng nào lớn hơn?” của Trần Trọng Thức (2), tôi thấy cần phải có thêm thông tin từ ngoài để người trong nước hiểu người ngoài nước hơn.
Xã hội người Việt
Vơ đũa cả nắm vào một chữ “Việt kiều” là một tiên đề không đúng đắn. Đúng ra thì “con sâu làm rầu nồi canh”, mà xã hội nào ở đâu cũng thế, trong quy luật phát triển tự nhiên, có hoa thơm trái ngọt thì cũng có những con sâu, không cứ chi là “Việt kiều”.
Cái thành kiến “Việt kiều” là những người rất giàu có, vung tiền như nước, đem tiền về mua hết đất đai nhà cửa… hay “Việt kiều” là thành phần dối trá, lường gạt người dân ngây thơ nhẹ dạ trong nước… làm cho những người Việt sinh sống ở nước ngoài rất khổ tâm.
Việt kiều bị móc túi, giật bóp giật túi ở trong nước, thì, “Ôi, chị về bên đó bảo hiểm nó đền!”. Có bảo hiểm nào ở nước ngoài đền tiền cho người bị cướp giật móc túi ở Việt
Tuy rằng, trên thực tế, con số những Việt kiều bị lừa, bị chính người thân trong gia đình, dòng họ lường gạt trong những trường hợp mua lại nhà của nhà nước hóa giá, mua nhà, mua đất… là có trên thực tế, báo chí cũng có nói đến.
Bây giờ, sau mười năm đầu của thế kỷ thứ hai mươi mốt, tình hình trong nước đã thay đổi nhiều, có người nói thẳng: “Việt kiều bây giờ không bằng Việt cộng!”. Người trong nước giàu phất, từ ngữ ”đại gia” xuất hiện, chỉ thành phần nhà giàu mới trong xã hội. Họ giàu thật. Trí thức hay công nhân ”Việt kiều” tại các nước sở tại có đồng lương cố định, bán chất xám, sức lao động hai mươi năm, ba mươi năm mới trả hết nợ mua một căn nhà, khi về hưu, lương hưu cũng cố định, làm sao dám tự so sánh với những đại gia mới trong nước. Nhiều người đi làm ký ca ký cóp, dành dụm hai ba năm mới có khả năng về thăm gia đình. Mỗi lần về không có quà cáp thì coi không đặng, quà cáp ít thì bị chê, rồi thân nhân, người quen đến hỏi có tiền cho mượn, hay “tôi nợ nần nhiều quá, cho xin ít tiền trả nợ!”, gây một hoàn cảnh rất khó xử để giữ gìn tình cảm không bị sứt mẻ.
Khi xưa, ở Sài Gòn, phải trình passport và vé máy bay, mới được cho vào Intershop, mới được mua một chai nước hoa, một phong thuốc lá hay một chai rượu mạnh. Bây giờ các thứ ấy bán đầy rẫy, “Việt kiều” về thăm nhà không có tiền mà mua. Đi chợ, thấy người bán nói một giá khác, giá dành cho “Việt kiều”, trả giá thì bị mắng “Đi đi, không bán!”. Ra đường thấy nhà cao cửa rộng, ngoại hình nội thất đều rất sang trọng, xe hơi đẹp, mới, cũng rất sang trọng, nhan nhản trước mắt, vừa thấy mình “nghèo” đi, vừa ngạc nhiên “Trời ơi, cái gì cũng không thiếu, phát triển trông thấy!”.
Người ra đi, có thể ví von như chàng Từ Hải, ngàn năm yên ấm ở nơi xa vẫn không quên chốn cũ. Bất cứ người Việt nào, dù ra đi trong hoàn cảnh nào, dù mang trong tim những kỷ niệm xấu đẹp nào, dù đã chịu đựng những tổn thất đau thương nào, đều có nhiều lúc tâm hồn trùng xuống, lắng sâu, mơ, nhớ, thương về quê cũ, nơi mình đã ra đi. Nhớ về quê cũ, “có triệu người vui nhưng cũng có triệu người buồn” (một câu phát biểu của ông Võ Văn Kiệt). Ngày trở về, có thể là vui, có thể là thất vọng ê chề như chàng Từ Hải, nhưng không phải vì thế mà cho rằng người ấy không biết thương quê.
Sự lựa chọn riêng biệt của mỗi người Việt ở nước ngoài đều do hoàn cảnh riêng biệt của mỗi người đưa đẩy.
“Về thì cũng có dăm bẩy cách về…”, các “cách về” cũng là những hoàn cảnh mới, không phải hoàn toàn chỉ tùy thuộc vào thiện chí, vào ý nguyện của người về.
Có người về được trọng dụng, có phương cách đầu mối xây dựng cơ sở tài sản giàu có, có tăm tiếng, có vinh danh. Có người về đi tìm việc làm thuê lãnh lương thì… bị chê, không có chỗ đứng, đành phải quay gót ra đi lần nữa (xin khoan hãy nói đến các danh từ hoa mỹ to lớn như về để “đóng góp cho đất nước”). Có người về, nản lòng vì những luật lệ cấm cản thế này thế nọ, lại cũng quay gót trở lui, thậm chí về đường đường chính chính bằng máy bay, trở ra bằng đường biển thành boat-people như nhiều người khác. Khi gặp những sinh viên Việt Nam trẻ măng đang theo học đại học ở nước ngoài, sinh ra và lớn lên “trong chế độ”, bàn tính kế hoạch để ở lại nước ngoài sinh sống, thì đó đúng là Việt Nam đang xuất cảnh chất xám. Trong khi chất xám của các thế hệ trước, cụ thể ít ra là từ thời Đại chiến thứ nhất, đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm chuyên ngành và vốn sống thì ứ đọng một cách uổng phí ở nước ngoài, không được tích cực sử dụng. Những lời kêu gọi hời hợt nhưng không có gì cụ thể tan vỡ nhanh chóng như bong bóng xà bông. Nếu ai cũng là giáo sư đại học, phó giáo sư, tiến sĩ vừa có học vị trí thức, vừa giầu có, đem bạc tỉ về đầu tư trong nước thì không còn gì để nói nữa cả.
Bộ Tài Nguyên và Môi Trường mới đưa chính thức và công khai lên mạng danh sách 150 Việt kiều đã được mua nhà tại Việt Nam (3), làm tôi nhớ đến câu nói của một ông tài xế taxi tại Hà Nội vào cuối năm trước “Việt kiều sẽ về mua hết nhà đất!”. Cái sợ ấy có chính đáng không và có đúng với thực tế không? Ông lái taxi quên rằng, theo định nghĩa pháp lý hiện tại ở Việt
Bài báo của tác giả Trần Trọng Thức đặt một câu hỏi quan trọng khi ông so sánh “mỏ vàng kiều hối” với mỏ vàng mới khám phá ra ở Campuchia: “Tại sao lại không nghĩ đến việc huy động những "đồng tiền ngọt ngào” này vào ngân hàng với lãi suất ưu đãi hoặc cho các khoản kiều hối được chuyển đổi với tỷ giá cao hơn giá thị trường, bởi đây là những khoản tiền nền kinh tế có được mà không phải mất một khoản đầu tư nào. Và trên tất cả là những chính sách thông thoáng hơn nữa của Chính phủ liên quan đến "một bộ phận không tách rời của dân tộc”.
Và ông phân tích: “Thử làm một bài toán đơn giản. Một trong những nguồn thu quan trọng của chúng ta là xuất khẩu. Theo cách tính của các doanh nghiệp xuất khẩu ngành may thì họ phải bỏ ra 100 USD mới có được 1 USD lợi nhuận. Còn nếu tính theo tỷ suất lợi nhuận trung bình lý tưởng nhất là 10%, để có được khoản "lãi ròng” 6,3 tỷ USD, như kiều hối năm 2009, thì phải cần nguồn vốn đầu tư lên đến 63 tỷ USD, nghĩa là tương đương hai phần ba GDP của chúng ta hiện nay!”
Những “đồng tiền ngọt ngào” mà “Việt kiều” khắp nơi trên thế giới gởi về hàng tháng, hàng năm để giúp đỡ gia đình và người thân là kết quả của một tình thương, một bổn phận hiểu theo nghĩa tự nguyện tự giác. Tình trạng, một người đi làm ở nước ngoài nuôi cả gia đình trong nước, hay dành dụm chắt bóp hai, ba năm có được 5, 10 ngàn đô la trong túi mới dám mua vé máy bay về thăm nhà thăm quê để tiêu sạch cả món tiền, là tương đối phổ biến. Ở nước ngoài, có lao động cật lực thì mới có thu nhập, đâu phải ra đường lượm tiền vương vãi để chuyển về nhà đâu. Những năm sau này, ngoài việc giúp đỡ cho gia đình, một thành phần Việt kiều luôn chú ý làm việc thiện rộng rãi trong xã hội, “cho” bằng nhiều cách: cho tiền, hay cho công sức, kiến thức, hiểu biết, trí tuệ.
Các câu nói tiêu cực nhất mà chính tôi bị nghe trong những chuyến về thăm nhà là: “Chị là Việt kiều, không phải là người Việt Nam”, “Văn của chị là văn trước 75”, “Chị có yếu tố nước ngoài”. Có thể, đó chỉ là những thành kiến cá nhân lạm dụng địa vị, chức quyền, thế đứng, không thích hợp với chính sách chủ trương của nhà nước hiện tại, nhưng nếu chưa xóa bỏ được những thành kiến, định kiến đối với “Việt kiều” nhan nhản trên báo chí, trên cửa miệng, thì con đường hòa hợp hòa giải dân tộc còn dài lâu.
Việc phân biệt đối xử theo cách nói “Năm ngón tay có ngón dài ngón ngắn”, Việt kiều có công và Việt kiều không có công, thì trong chừng mực nào đó, không tỷ lệ thuận với ý định khuyến khích người chưa có công ráng lên để được vinh danh. Các nước Pháp, Đức đều có hệ thống “vinh danh”, trao tặng huân chương cho những người có công với tổ quốc. Nhưng, khi cùng lúc xã hội lại có bất công ngược đãi, người thì bị chủ sa thải mất việc, người thì được gắn huân chương, thì những hình thức vinh danh đó chỉ đem lại một cái cười mỉm cho những ai, có lòng chân thật, nhưng không được đeo huân chương.
Ít ra, theo ý tôi, một người bị gọi là “Việt kiều”, từ ngữ “Việt kiều” phải biến mất khỏi ngôn ngữ Việt Nam, và nếu muốn sử dụng Hán-Việt thì nên viết “kiều bào Việt Nam ở hải ngoại”, dù sao, từ ngữ “bào” nghe thoang thoáng như “đồng bào” có tình hơn, còn nếu muốn viết theo tiếng Việt trong sáng, thì nên viết rõ là “người Việt ở nước ngoài”.
Cái bánh khúc ở đâu nó cũng là cái bánh khúc. Nếu người Việt không biết thương nhau, thì “hòa giải hòa hợp” với người các nước khác còn có ý nghĩa gì, vì chính người các nước khác sẽ tự đặt câu hỏi và nghi vấn.
©MathildeTuyetTran, France 2010
* Chú thích:
(1) “Từ Việt kiều đến “ngôi” Hoàng kiều“ Hiệu Minh - Tuanvietnam.net ngày 22/5/2010
(2) “Mỏ vàng nào lớn hơn?” Trần Trọng Thức - Tuanvietnam.net ngày 01/06/2010
(3) http://www.monre.gov.vn/MONRENET/default.aspx?tabid=276- Danh sách người Việt
(4) Kiều bào vẫn “quá khó để mua nhà” - Tuổi trẻ online ngày 04/03/2010 và các bài khác về các chủ đề địa ốc, nhà đất, Việt kiều.