Thơ tình Hoàng Song Liêm - Cuốn thơ của người xa xứ
Quê hương hữu hình là sông, là núi, là nấm mộ ông cha, là con đường làng thơm mùi hoa cau, hoa bưởi, là những mái tranh nghèo mờ tỏ làn khói lam nhẹ mỏng của bữa cơm chiều. Quê hương còn là cơn gió heo may man mác bứt rụng từng chiếc lá úa vàng để lòng trai mới lớn bỗng thấy vẩn vơ, là những cơn mưa xối xả giục bước chân rảo vội tìm nơi ẩn trú, là những lăng tẩm u trầm nơi đế đô với giọng hò day dứt trên dòng Hương Giang. Quê hương còn là tiếng võng kẽo kẹt trưa hè bà ru cháu ngủ bằng những câu chuyện cổ tích Tấm Cám, Thạch Sanh khuyên nhủ con người ăn ở có nhân có đức, là trang luân lý được khai tâm ngay buổi đầu cắp sách đến trường “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra...”. Quê hương cũng lại là những kỷ niệm một tuổi hoa niên: tờ thư giúi vội vào chiếc rổ em cắp bên sườn, một vành nón nghiêng nghiêng giấu sau nụ cười e ấp...
Tôi đã có những cảm giác trên đây khi đón nhận trên tay “Thơ tình Hoàng Song Liêm” - cuốn thơ của người xa xứ - in đẹp, trang nhã, vuông vắn như một họa tập bìa cứng, giấy cút – xê điểm hoa văn dầy 104 trang trong có 12 trang phụ bản họa và nhạc.
Tác giả Hoàng Song Liêm vốn quê miền Bắc (Phủ Lý – Hà Nam), từng viết báo tại Hà Nội những năm 1951 – 1954, sau đó vào Nam rồi cuối đời theo gia đình sang định cư bên Mỹ. Năm 2006, trong một chuyến về thăm quê hương, anh đã cho in tập thơ này (NXB Văn nghệ - TPHCM) để lại một số biếu bạn bè, còn bao nhiêu anh chuyển tải tất sang bên kia đại dương.
Có một điều dễ thấy nhất, sống giữa một thành phố công nghiệp ồn ào với những lo toan tính toán của cuộc mưu sinh gay gắt từng ngày từng giờ nhưng xuyên suốt tập thơ anh chỉ là một TÌNH YÊU, NỖI NHỚ, những ngậm ngùi, nhũng tiếng thở dài vọng về mảnh đất đã ra đi:
“Đất khách vời trông Tổ quốc xa
Bên trời tóc trắng tuyết sương pha
Người đi khắc khoải niềm u uẩn
Tiếng cuốc sầu đưa nỗi nhớ nhà.”
(Tổ quốc xa)
“30 năm lưu lạc
Đất Mẹ cách trùng dương
Đầy trời bông tuyết trắng
Lòng riêng những ngậm ngùi”
(Lưu lạc)
Càng đi xa, càng thôi thúc nhớ về dĩ vãng, mà dĩ vãng thì bao giờ cũng đẹp, cả những cái rất bình thường mà đối với anh cũng bỗng dưng thành thơ gợi nhớ. Cái “mùi phân trâu” ấy có gì “hấp dẫn” đâu mà sao vào thơ anh bỗng da diết đến thế cùng với “tiếng cu gáy vườn xưa - lời chim sâu ríu rít – con chuồn chuồn còn đậu đó ngu ngơ – đàn bướm lượn vòng quanh ngoài cửa lớp... “từ “ngu ngơ” được sử dụng rất đắt không có trong Từ điển mà sao ta vẫn cảm nhận cái đẹp, cái bâng khuâng...
“Ôi! mùi phân trâu trên lối ngõ về làng
Chợt thức dậy lòng tôi xao xuyến quá
Năm tháng cũ lang thang trên bờ cỏ
Con đê dài, dòng sông biếc quanh co
....
Ôi quê hương gợi nhớ thủa nào xa
Hong tuổi dại nghe lời ru của mẹ
Bài ca dao thuộc nằm lòng tấm bé
Thương cái cò lặn lội cuối bờ ao
Thương cái cò chìm giấc ngủ tôi sâu”
(Về làng cũ)
Nhớ đến quê hương không thể không nhớ đến Hà Nội dù trải qua bao thăng trầm biến cố vẫn giữ nguyên nét hào hoa tinh tế với “sóng nước Hồ Gươm – đêm vàng Thuỷ Tạ”, với mùi hoa sữa dịu nhẹ trong đêm, với đền Ngọc Sơn cầu Thê Húc anh và em đi hái lộc đêm Giao Thừa, với con đường Cổ Ngư sánh bước hàng cây, những âm thanh rất đỗi quen thuộc của 36 phố phường xưa...
“Tưởng đâu xa lắc xa lơ
Tiếc ngẩn tiếc ngơ Hà Nội
Cám ơn Em thầm giọng nói
Còn trong tuổi nguyệt Tây Hồ
Sợi tình tưởng như sợi khói
Còn nguyên giọng nói đâu ngờ
Sóng nước Hồ Gươm còn gọi
Đêm vàng Thuỷ Tạ năm xưa”
(Giọng Hà Nội xưa)
Ở cái tuổi 70, “tóc xanh giờ đã phai mầu” lòng càng thêm trống trếnh, nhìn quanh cảnh Tết xa lạ xứ người, anh thao thức nhớ về nơi quê cha đất tổ:
“Đã mấy Xuân rồi không có Tết
Cây nêu tràng pháo thủa đầu xanh
Quê người xứ lạ còn quanh quẩn
Mộng cũ chưa phai một giấc tình”
(Xứ lạ quê người)
Và ngậm ngùi thân phận:
“Cố hương chìm khuất xa ngàn dặm
Đất khách nương thân quá nửa đời”
Nỗi sầu hoài xa xứ giúp anh có những rung động thật tinh tế, những cảm nhận mà người bình thường không tâm trạng như anh không thể thấy được. Anh như nghe được cả tiếng thì thầm của cỏ cây hoa lá, của mưa nắng ngoài song như cùng chia sẻ với tâm sự anh:
“Hồn nghe đơn lạnh gió ngoài song thưa.
Ngẩn ngơ mấy cọng cỏ bỗng tiễn đưa”
Tâm sự khắc khoải còn ghi rõ trong nhiều bài: “Rồi ngày tháng qua đi”...”Khúc tương tư”...”Hoài niệm cuộc tình”...”Men theo nỗi nhớ”...”Cô đơn”...
Trong suốt 104 trang thơ anh, ta không phải thấy cảnh mịt mù khói lửa, những lời hô hào nói to, không có sắt thép, hàng hoá, thị trường. Thơ anh thủ thỉ khẽ khàng, chỉ là những SỢI TÌNH tưởng như mỏng manh mà có sức buộc chặt hồn người bởi đã đề cập đến những gì thiêng liêng nhất về NGUỒN CỘI, về QUÊ HƯƠNG, về TÌNH YÊU muôn thủa, không nhạt nhoà những ký ức tuổi thơ: Một “tờ thư ngày cũ”, một “quyển vở kỷ niệm” với NGƯỜI – EM – GÁI “Suối tóc năm xưa còn thơm mùi hoa bưởi”.
“Lung linh tình một thủa
Hắt hiu đong sầu đầy
Mười năm dài thương nhớ
Ngày tháng lạnh như mây”
(Tình mười năm)
Anh chắt chiu với những hình ảnh:
“Màu áo lụa còn mùi hương trong tủ
Sợi tóc xưa còn rối lược răng cài...”
Hay những buổi tung tăng trên con đường làng:
“Những chiều cắp sách tung tăng chạy
Khắp ngả đường vang rộn tiếng cười”
Về kỹ thuật thơ - với một bút pháp khá tinh thông, Hoàng Song Liêm đã làm nhiều thể loại: thơ lục bát dàn rộng không gian, thơ 7 chữ, 6 chữ, 5 chữ ngọt ngào trữ tình, có những bài anh sử dụng toàn vần bằng, câu thơ nghe cứ chơi vơi tịch mịch như một dòng chảy êm đềm. “Thơ tình Hoàng Song Liêm” giàu hình ảnh dân tộc, lại mang đậm chất thơ chất nhạc nên rất dễ để một số nhạc sĩ cảm hứng phổ thành nhạc dùng thay phụ bản.
“Sương rơi, sương rơi lưng chừng trời
Nghe lòng ta thầm lên chơi vơi
Non cao, đường xa, về không người
Chim rừng theo mây bay xa xôi.
Đường mòn quanh co không còn ai
Lời cồng lời chiêng lòng u hoài
Ta sầu mong gì Em nào hay
Chiều hiu hiu trăng, mơ đêm dài.”
(Chơi vơi)
Theo triết lý nhà Phật, cõi đời là PHÙ DU, tất cả hoàn nguyên CÁT BỤI, cái duy nhất còn lại là TÌNH NGƯỜI. Thơ Hoàng Song Liêm sẽ tồn tại mãi với thời gian, bởi đó là thơ – đích - thực, thơ của một con người theo đúng nghĩa có tình yêu, có quê hương dĩ vãng, có lòng vị tha nhân hậu... Tôi rất mừng dù gót chân đã dầy dạn lê gót sông hồ, đã là người trong cuộc của bao biến chuyển đổi thay nhưng trước sau Hoàng Song Liêm vẫn không: “đánh mất mình”, vẫn chỉ là một “nhà thơ” theo đúng nghĩa thiêng liêng của danh từ này.
Riêng với tôi, xin được cám ơn anh đã cho tôi được hưởng những phút giây kỳ diệu khi đọc thơ anh, bỗng thấy hồn như được chuốt lại, hồn nhiên trong sáng hơn trong một lớp men say, như được gặp lại chính mình một tuổi nào đã xưa đang ngâm mình thoả thích trong dòng nước mát nơi quê ngoại hay tung tăng chạy nhảy trên cánh đồng làng ngào ngạt mùi hương lúa chín với sợi cước dài bên tay, cặp mắt thơ ngây thích thú dõi theo chiếc cánh diều đang lơ lửng trên không, vu vi tiếng gió...
20/9/2006
Băng Hồ