Quyển II: Bắc thuộc thời đại – Chương I + II
(Tiếp theo kỳ trước)
Chương I
BẮC THUỘC LẦN THỨ NHẤT (111 tr. Tây lịch – 39 s. Tây lịch)
1. CHÍNH TRỊ NHÀ TÂY HÁN: Năm Canh Ngọ (111tr. Tây lịch) vua Vũ Đế nhà Hán sai Lộ Bác Đức và Dương Bộc sang đánh nhà Triệu, lấy nước Nam Việt, rồi cải là Giao Chỉ bộ, và chia ra làm 9 quận như sau:
1. Nam Hải (Quảng Đông).
2. Thương Ngô (Quảng Tây)
3. Uất Lâm (Quảng Tây)
4. Hợp Phố (Quảng Đông)
5. Giao Chỉ
6. Cửu Chân
7. Nhật Nam
8. Châu Nhai: (Đảo Hải Nam)
9. Đạm Nhĩ: (Đảo Hải Nam)
Mỗi quận có quan Thái thú coi việc cai trị trong quận và lại có quan Thứ sử để giám sát các quận. Ở trong quận Giao Chỉ thì có những Lạc tướng hay Lạc hầu vẫn được thế tập giữ quyền cai trị các bộ lạc tựa hồ như các quan lang ở mạn thượng du đất Bắc Việt bây giờ.
Quan Thứ sử đầu tiên là người Thạch Đái, đóng phủ trị ở Long Uyên(?). Có sách chép là phủ trị thuở ấy đóng ở Lũng Khê, thuộc phủ Thuận Thành bây giờ.
Từ đời vua Vũ Đế cho đến hết đời nhà Tây Hán không thấy sử nói gì đến đất Giao Chỉ nữa. Mãi đến năm Kỷ Sửu (năm 29 Tây lịch) là năm Kiến Võ thứ 5 đời vua Quang Vũ nhà Đông Hán thì mới thấy chép rằng Thứ sử Giao Chỉ là Đặng Nhượng sai sứ về cống Nhà Hán. Bởi vì khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, bọn Đặng Nhượng, Tích Quang và Đỗ Mục ở Giao Chỉ giữ châu quận, không chịu phục Vương Mãng. Đến khi vua Quang Vũ trung hưng, bọn Đặng Nhượng mới sai sứ về triều cống.
2. TÍCH QUANG VÀ NHÂM DIÊN: Về đầu thế kỷ đệ nhất có hai người sang làm thái thú trị dân có nhân chính. Một người tên là Tích Quang làm Thái thú Giao Chỉ, một người tên là Nhâm Diên làm Thái thú quận Cửu Chân.
Tích Quang sang làm Thái thú quận Giao Chỉ từ đời vua Bình đế nhà Tây Hán, vào quãng năm thứ 2 thứ 3 về thế kỷ đệ nhất. Người ấy hết lòng lo việc khai hoá, dạy dân lấy điều lễ nghĩa, cho nên dân trong quận có nhiều người kính phục.
Nhâm Diên thì sang làm Thái thú quận Cửu Chân từ năm Kiến Võ nhà Đông Hán. Bấy giờ dân quận ấy chỉ làm nghề chài lưới và săn bắn, chứ không biết cày cấy làm ruộng nương. Nhâm Diên mới dạy dân dùng cày bừa mà khai khẩn ruộng đất, bởi vậy chẳng bao lâu mà quận ấy có đủ thóc gạo ăn. Người ấy lại dạy dân làm lễ cưới hỏi khi lấy vợ lấy chồng, và bắt những lại thuộc trong quận lấy một phần lương bổng của mình mà giúp cho những kẻ nghèo đói để lấy vợ lấy chồng.
Nhâm Diên ở Cửu Chân được 4 năm thì được thăng chức về Tàu đi làm quan chỗ khác. Dân sự quận ấy ái mộ Nhâm Diên, làm đền thờ. Có người vì được nhờ quan Thái thú cho nên khi sinh con ra, lấy tên Nhâm mà đặt tên cho con, để tỏ lòng biết ơn.
Chương II
TRƯNG VƯƠNG (40-43)
1. TRƯNG THỊ KHỞI BINH: Năm Giáp Ngọ (34) là năm Kiến Võ thứ 10, vua Quang Vũ sai Tô Định sang làm Thái thú quận Giao Chỉ.
Tô Định là người bạo ngược, thường sử dụng những thủ đoạn chính trị tàn ác, nên bị người Giao Chỉ rất oán giận. Năm Canh Tý (40), ông ta lại giết Thi Sách là người ở quận Châu Diên (phủ Vĩnh Tường, trước thuộc về Sơn Tây, nay thuộc tỉnh Vĩnh Yên).
Vợ Thi Sách là Trưng Trắc, con gái quan Lạc tướng ở huyện Mê Linh (làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên) cùng với em là Trưng Nhị nổi lên đem quân về đánh Tô Định. Bọn Tô Định phải chạy trốn về quận Nam Hải.
Lúc bấy giờ những quận Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố cũng nổi lên theo về với Hai Bà Trưng. Chẳng bao lâu quân Hai Bà hạ được 65 thành trì. Hai bà bèn tự xưng làm vua, đóng đô ở Mê Linh, là chỗ quê nhà.
2. MÃ VIỆN SANG ĐÁNH GIAO CHỈ: Năm Tân Sửu (41) vua Quang Vũ sai Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Lưu Long làm Phó tướng quân cùng với quan Lâu thuyền tướng quân là Đoàn Chí sang đánh Trưng Vương.
Mã Viện là một danh tướng nhà Đông Hán, lúc bấy giờ đã ngoài 70 tuổi, nhưng vẫn còn mạnh, đem quân đi men bờ bể phá rừng đào núi làm đường sang đến Lãng Bạc, gặp quân Trưng Vương hai bên đánh nhau mấy trận. Quân của Trưng Vương không đương nổi quân của Mã Viện vốn đã từng chinh chiến nhiều phen. Hai Bà rút quân về đóng ở Cấm Khê (phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên). Mã Viện tiến quân lên đánh, quân Hai Bà tan vỡ. Hai Bà chạy về đến xã Hát Môn, thuộc huyện Phúc Lộc (nay là huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây), thế bức quá, bèn gieo mình xuống sông Hát Giang (chỗ sông Đáy tiếp vào sông Hồng Hà) mà tự tận. Bấy giờ là ngày mồng 6 tháng 2 năm Quý Mão (43).
Những tướng của Hai Bà là bọn Đô Dương chạy vào giữ huyện Cư Phong thuộc quận Cửu Chân. Sau Mã Viện đem quân vào đánh, bọn Đô Lương đều phải ra hàng.
Hai Bà họ Trưng làm vua được 3 năm, nhưng lấy cái tài trí người đàn bà mà dấy được nghĩa lớn như thế, khiến cho vua tôi nhà Hán phải lo sợ, ấy cũng là đủ để tiếng thơm lại muôn đời. Ngày nay có nhiều nơi lập đền thờ Hai Bà để ghi tạc danh tiếng hai người nữ anh hùng của nước Việt Nam ta.
Sử gia Lê Văn Hưu nói rằng: "Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà nổi lên đánh lấy được 65 thành trì, lập quốc xưng vương dễ như trở bàn tay. Thế mà từ cuối đời nhà Triệu cho đến đời nhà Ngô hơn một nghìn năm, người mình cứ cúi đầu bó tay làm tôi tớ người Tàu, mà không biết xấu hổ với hai người đàn bà họ Trưng!".
(Xem tiếp kỳ sau)