Chương XV . Việc đánh dẹp [1] ở Trung kỳ và ở Bắc kỳ
(Tiếp theo kỳ trước)
1. VIỆC ĐÁNH DẸP Ở CÁC NƠI.
2. VUA ĐỒNG KHÁNH RA QUẢNG BÌNH.
3. HOÀNG KẾ VIÊM RA QUÂN THỨ MẠN QUẢNG BÌNH.
4. LẬP ĐỒN MINH CẦM.
5. VUA HÀM NGHI BỊ BẮT.
6. VUA THÀNH THÁI.
7. SỰ ĐÁNH DẸP Ở BẮC KỲ.
8. VIỆC PHAN ĐÌNH PHÙNG.
9. LÒNG YÊU NƯỚC CỦA NGƯỜI VIỆT NAM.
1. VIỆC ĐÁNH DẸP Ở CÁC NƠI. Trong khi thống đốc Paul Bert xếp đặt mọi việc ở Bắc Kỳ, thì ở Trung kỳ quân Cần vương ở các tỉnh vẫn đánh phá. Quân Pháp phải tìm cách mà đánh dẹp cho yên. Ở mạn Bình Thuận, Phú Yên thì thiếu tá De Lorme và viên Công sứ Aymonier cùng với Trần Bá Lộc đem lính Tây và lính Nam kỳ ra đánh dẹp. Trần Bá Lộc đem lính Tây và lính Nam Kỳ ra đánh dẹp. Trần Bá Lộc dùng cách dữ dội, chém giết rất nhiều, bởi vậy đất Bình Thuận không bao lâu mà yên; rồi đem quân ra dẹp đảng văn thân ở Phú Yên và Bình Định, bắt được cử nhân Mai Xuân Thưởng, Bùi Điền và nguyễn Đức Nhuận đem chém. Từ tháng 6 năm bính tuất (1886) đến tháng 6 năm đinh hợi (1887), thì những tỉnh ở phía nam đất Kinh kỳ đã dẹp yên.
2. VUA ĐỒNG KHÁNH RA QUẢNG BÌNH. Đất Trung kỳ từ Quảng Trị trở ra chưa được yên. Vua Đồng Khánh bèn định ra tuần thú mặt bắc, để dụ vua Hàm Nghi và những quan đại thần về cho yên việc đánh dẹp, Quan Pháp sai đại uý Henry Billet đi hộ giá.
Ngày 16 tháng 5 bính tuất (1886), xa giá ở Kinh đi ra, mãi đến cuối tháng 7 mới tới Quảng Trị. Xa giá đi đến đâu thì đảng cựu thần vẫn không phục, cứ đem quân đến chống cự, cho nên việc vua đi tuần thú lần ấy, không có kết quả gì cả. Ra đến Quảng Bình thì vua Đồng Khánh yếu, ở được vài mươi ngày rồi phải xuống tàu đi đường hải đạo trở về Huế.
3. HOÀNG KẾ VIÊM RA QUÂN THỨ MẠN QUẢNG BÌNH. Vua Đồng Khánh về Huế được vô sự. Đến tháng 9 vua khai phục nguyên hàm cho Hoàng Kế Viêm và phong cho làm Hữu trực kỳ An Phủ kinh lược đại sứ, được quyền tiện nghi hành sự, để ra Quảng Bình dụ vua Hàm Nghi và các quan cựu thần về. Trong tờ dụ của vua Đồng Khánh ban cho Hoàng Kế Viêm đại lược nói rằng: Nếu vua Hàm Nghi mà thuận về, thì sẽ phong cho làm Tổng trấn ba tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An và Hà Tĩnh, và lại cấp cho bổng lộc theo tước vương. Các quan cựu thần như các ông Trương Văn Ban, Nguyễn Trực, Nguyễn Chư, Lê Mô Khải, Nguyễn Nguyên Thành, Phan Trọng Mưu, Nguyễn Xuân Ôn, Lê Doãn Nhạ, Ngô Xuân Quỳnh, ai về thú thì được phục nguyên chức, cho vào làm quan ở các tỉnh từ Quảng Trị trở vào. Còn như các ông Trần Xuân Soạn, Nguyễn Phạm Tuân, Phan Đình Phùng mà có chịu về thì sẽ tha những điều lỗi trước, và sẽ phong cho chức hàm khác. Những điều ấy đã bàn với viên Thống đốc Paul Bert, hai bên đã thuận cho như thế, quyết không sai lời.
Bấy giờ quân của quan Đề đốc Lê Trực đóng ở mạn Thanh Thuỷ, thuộc huyện Tuyên Chánh; quan của Tôn Thất Đạm là con Tôn Thất Thuyết thì đóng ở ngàn Hà Tĩnh, về hạt Kỳ Anh và Cẩm Xuyên. Còn Tôn Thất Thiệp và Nguyễn Phạm Tuân thì phò vua Hàm Nghi ở mạn huyện Tuyên Hoá.
Ông Hoàng Kế Viêm ra Quảng Bình, sai người đi dụ ông Lê Trực về. Nhưng các ông ấy cứ nhất thiết không chịu, chỉ có bọn thủ hạ lác đác vài người ra thú mà thôi. Bởi vậy, việc Hoàng Kế Viêm ra kinh lược cũng không thành công, cho nên đến tháng 5 năm đinh hợi (1887), lại phải triệt về.
4. LẬP ĐỒN MINH CẦM. Triều đình ở Huế thấy dùng cách phủ dụ không được, bèn để quyền cho người Pháp tìm kế đánh dẹp.
Người Pháp cũng biết là thế lực của đảng vua Hàm Nghi chẳng được là bao nhiêu, cốt tìm đường mà chiếm dần địa thế và mua chuộc những đứa làm tay trong, thì tất thế nào cũng trừ hết được, bởi vậy cho nên không dùng đến đại binh.
Trước đại uý Mouteaux ở Quảng Bình đã cùng với ông cố Tortuyaux đem quân đi đánh lấy đồn của Lê Trực ở Thanh Thuỷ, nhưng quân của ông ấy vẫn không tan, cứ đánh phá mãi. Đến tháng giêng năm đinh hợi (1887), đại uý Mouteaux đem quân lên lập đồn Minh Cầm đóng ở mé trên Thanh Thuỷ. Đại uý vẫn biết ông Lê Trực là một người có nghĩa khí, và trong khi hai bên chống cự với nhau không bao giờ ông ấy làm điều tàn ác, cho nên đại uý vẫn có ý trọng lắm. Trước đã cho người đưa thư lên dụ ông ấy về thú. Ông ấy phúc thư lại rằng: “Tôi vì vua, vì nước, chết sống cũng một lòng làm cho hết việc bổn phận, chứ không dám tham sự sống mà quên việc nghĩa”.
Từ khi quân Pháp đóng đồn ở Minh Cầm, các ông Lê Trực và Nguyễn Phạm Tuân phải lui lên mé trên. Ông Lê Trực thì ra mạn Hà Tĩnh, ông Nguyễn Phạm Tuân thì lên đóng ở làng Yên Lộc về phía nam sông Gianh.
Quang tháng 3, nhờ có người do thám, biết chỗ ông Nguyễn Phạm Tuân đóng, đại uý Mouteaux bèn đem quân lên vây làng Yên Lộc, bọn ông Nguyễn Phạm Tuân, trong khi bất ý, đều bị bắt cả. Ông Nguyễn Phạm Tuân phải đạn bên cạnh sườn, sống được mấy ngày thì mất.
Quân Pháp tuy đã trừ được ông Nguyễn Phạm Tuân nhưng ông Lê Trực hãy còn, và vẫn chưa biết rõ vua Hàm Nghi ở chỗ nào, sau có người ra thú, mách rằng muốn bắt vua Hàm Nghi thì mưu với tên Trương Quang Ngọc. Tên ấy là người bản xứ ở đấy và từ khi vua ra ở vùng đó nó được vào hầu cận, và lại là một đứa khí độ tiểu nhân, thì chắc có lẽ mua chuộc nó được. Đại uý định tìm cách để thông với tên Ngọc, cho người đi do thám, biết tên Ngọc hiện đóng ở làng Chà Mạc, bèn đem quân lên vây làng ấy. Nhưng khi đến nơi, tên Ngọc thấy động, chạy thoát được. Đại uý sai tìm trong làng chỉ thấy có một bà lão, đại uý bèn đưa cái thư viết cho tên Ngọc, nhờ bà lão ấy đưa cho nó, rồi rút quân về đồn Minh Cầm.
Được mấy hôm kỳ dịch những làng mé trên về thú ở đồn Minh Cầm, đại uý đưa cho chánh tổng những dân ấy mấy lạng thuốc phiện và mấy bì gạo trắng để gởi cho tên Ngọc và nhờ bảo nó dỗ vua Hàm Nghi về. Tên Ngọc nhận những đồ ấy và trả lời xin hết lòng giúp người Pháp, nhưng cần phải để thong thả, sợ việc tiết lộ ra thì không thành.
Từ đó việc bắt vua Hàm Nghi chỉ trông cậy vào tên Ngọc. Nhưng bấy giờ có người con thứ Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Thiệp giữ gìn vua Hàm Nghi một cách nghiêm mật quá. Tôn Thất Thiệp thề sống chết không để cho quân Pháp bắt được vua. Bởi vậy, hễ ai nói đến sự về thú thì bắt chém ngay, cho nên bọn tên Ngọc tuy đã nhị tâm, nhưng chưa dám hạ thủ.
Ở mé ngoài, thì các ông Lê Trực và Tôn Thất Đạm, nay đánh chỗ này mai phá chỗ kia mà không sao bắt được. Đại uý Mouteaux đánh đuổi lâu ngày nhọc mệt, bèn xin về Pháp nghỉ.
5. VUA HÀM NGHI BỊ BẮT. Qua tháng giêng năm mậu tí (1888), viên đại tá coi đạo quân ở Huế ra Quảng Bình, rồi chia quân đi tuần tiễu, để tìm vua Hàm Nghi và đuổi bắt ông Lê Trực và ông Tôn Thất Đạm. Đến tháng 9 năm ấy, quân lính mỏi mệt mà không thành công được. Quân Pháp đã toan rút về giữ những đồn ở gần mạn bể, bỗng dưng có tên suất đội Nguyễn Đình Tình hầu cận vua Hàm Nghi ra thú ở đồn Mang Cá, phía trên đồn Minh Cầm, và khai rõ tình cảnh cùng chỗ vua đóng. Người Pháp bèn sai tên Tình đem thư lên dụ tên Ngọc về. Được mấy hôm tên Ngọc và tên Tình về tình nguyện xin đi bắt vua Hàm Nghi,
Người Pháp truyền cho bọn tên ngọc phải làm thế nào mà bắt sống được vua Hàm Nghi, còn những người khác hễ ai chống cự, thì cứ giết đi.
Ngày 26 tháng 9, tên Ngọc và tên Tình đem hơn 20 đứa thủ hạ, người ở làng Thanh Lang và Thanh Cuộc lên vây làng Tả Bảo [2] là chỗ vua Hàm Nghi đóng. Đến độ nửa đêm, khi chúng nó xông vào, thì Tôn Thất Thiệp còn đang ngủ, hoảng hốt cầm gươm nhảy ra, bị chúng đâm chết. Vua Hàm Nghi trông thấy tên Ngọc làm phản như vậy, cầm thanh gươm đưa cho nó và bảo rằng: “Mày giết tao đi, còn hơn đưa tao về nộp cho Tây”. Ngài vừa nói dứt lời, thì bọn chúng nó có một đứa lẻn ra sau lưng ôm quàng lấy ngài rồi giựt thanh gươm ra. Từ khi ngài bị bắt rồi, ngài không nói năng gì nữa.
Sáng ngày hôm sau, bọn tên Ngọc võng ngài ra đến bến Ngã Hai, rồi đem xuống cái bè, đi mất hai ngày mới về đến đồn Thanh Lang, nộp cho viên đại uý coi đồn là ông Boulangier. Đại uý lập tức đem ngài về đồn Thuận Bài đóng ở tả ngạn sông Gianh, gần chợ Đồn.
Vua Hàm Nghi bấy giờ đã 18 tuổi, quan Pháp lấy vương lễ mà tiếp đãi. Tuy vậy ai hỏi gì, ngài cũng không nói, chỉ nhất thiết chối rằng mình không phải là vua.
Nhưng đến lúc vào trong buồng ngồi một mình, thì hai hàng nước mắt chan chứa, buồn vì nỗi nước đổ nhà tan, thân mình phải nhiều nỗi gian truân.
Người Pháp đem vua Hàm Nghi xuống tàu về Thuận An, rồi đem sang để ở bên xứ Algérie, là xứ thuộc địa cũ nước Pháp, ở phía bắc châu A-phi-ly-gia, mỗi năm cấp cho 2 vạn rưỡi phật lăng [3].
Tên Trương Quang Ngọc được thưởng hàm lĩnh binh, tên Nguyễn Đình Tình cũng được thưởng hàm quan võ. Còn bọn thủ hạ, đứa thì được thưởng hàm suất đội, đứa thì được thưởng mấy đồng bạc.
Tôn Thất Đạm ở ngàn Hà Tĩnh, nghe tin vua Hàm Nghi bị bắt, bèn hội cả bọn tướng lại, truyền cho ra thú để về làm ăn, rồi viết hai bức thư: một bức để dâng vua Hàm Nghi, xin tha lỗi cho mình làm tôi không cứu được vua, và một bức gửi cho thiếu tá Dabatm đóng ở đồn Thuận Bài xin cho bọn thủ hạ ra thú. Viết thư xong rồi, Tôn Thất Đạm nói rằng: “Bây giờ người Pháp có muốn bắt ta thì vào tìm thấy mả ta ở trong rừng!”. Đoạn rồi thắt cổ mà tự tận [4].
Ông Tôn Thất Thuyết làm đại tướng mà cư xử ra một cách rất hèn nhát không đáng làm người trượng phu chút nào. Nhưng hai người con thì thật là bậc thiếu niên anh hùng, có thể che được cái xấu cho cha vậy.
Quan Đề đốc Lê Trực cũng đem hơn 100 quân ra thú ở đồn Thuận Bài. Triều đình ở Huế xem cái tờ xin ra thú, thấy lời lẽ của quan Đề đốc cũ nói khảng khái, không được khiêm tốn, có ý muốn bắt tội, nhưng người Pháp thấy là một người trung nghĩa, có lòng quí trọng, tha cho về yên nghiệp ở nhà.
Sau ông Lê Trực về ở làng Thanh Thuỷ, thuộc huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình, người Pháp thường vẫn đi lại và có ý kính trọng lắm. Người bản quốc thấy vậy, ai cũng làm cảm phục.
6.VUA THÀNH THÁI. Ngày 17 tháng chạp năm mậu tí là ngày 28 tháng giêng năm 1888, vua Đồng Khánh phải bệnh mất, thọ 25 tuổi, làm vua được 3 năm, miếu hiệu là Cảnh tông Thuần hoàng đế.
Bấy giờ ông Rheinard lại sang làm Khâm sứ ở Huế, thấy con vua Đồng Khánh còn nhỏ, và lại nhớ ông Dục Đức ngày trước, khi vua Dực tông hãy còn, thường hay đi lại với người Pháp, bởi vậy viên Khâm sứ nghĩ đến tình cũ mà truyền lập ông Bửu Lân là con ông Dục Đức lên làm vua.
Ông Bửu Lân bấy giờ mới lên 10 tuổi, đang cùng với mẹ phải giam ở trong ngục. Triều đình vào rước ra, tôn lên làm vua, đặt niên hiệu là Thành Thái, cử ông Nguyễn Trọng Hợp và ông Trương Quang Đản làm Phụ chính.
7. SỰ ĐÁNH DẸP Ở BẮC KỲ. Khi nhà Thanh bên Tàu đã ký hoà ước với nước Pháp ở Thiên Tân rồi, quân Tàu ở nước ta rút về. Nhưng các cựu thần như quan Tán tương quân vụ là Nguyễn Thiện Thuật và quan Đề đốc Tạ Hiện còn giữ ở vùng Bãi Sậy thuộc Hải Dương cùng với các thổ hào như Đốc Tít ở vùng Đông Triều; Đề Kiều ở vùng Hưng Hoá; Cai Kinh, Đốc Ngữ ở vùng Phủ Lạng Thương và Yên Thế; Lương Tam Kỳ, dư đảng cờ đen, ở vùng chợ Chu đều nổi lên tương ứng với nhau mà đánh phá. Lúc ấy quan quyền kinh lược sứ là ông Nguyễn Trọng Hợp cử quan quyền Tổng đốc Hải Dương là Hoàng Cao Khải làm chức Tiểu phủ sứ đi đánh dẹp ở vùng Bãi Sậy.
Hoàng Cao Khải đem quân đi đánh riết mấy mặt. Bọn văn thân người thì tử trận, người thì bị bắt. Nguyễn Thiện Thuật chạy sang Tàu, sau mất ở Nam Ninh, thuộc Quảng Tây. Đốc Tít ra hàng, phải đày sang ở thành Alger, bên Algérie. Đề Kiều và Lương Tam Kỳ ra thú được ở yên. Cai Kinh bị bắt, Đốc Ngữ ra thú, Hoàng Hoa Thám ở Yên Thế đến năm 1912 mới bị giết.
Hoàng Cao Khải đi đánh dẹp có công, về được chính phủ bảo hộ cho lĩnh chức Bắc kỳ Kinh lược sứ.
8. VIỆC PHAN ĐÌNH PHÙNG. Từ năm kỷ sửu (1889) là năm Thành Thái nguyên niên cho đến năm quí tị (1893) là năm Thành Thái ngũ niên, đất Trung kỳ không có việc gì quan hệ lắm. Các quan cựu thần, người thì về thú, người thì ẩn nấp ở chỗ sơn lâm. Riêng ông Phan Đình Phùng thì về mở đồn điền ở Vũ Quang về phía huyện Hương Khê, thuộc tỉnh Hà Tĩnh, rồi cho người đi sang Tàu, sang Tiêm, học đúc súng đúc đạn, để đợi ngày khởi sự.
Ông Phan Đình Phùng người tỉnh Hà Tĩnh, thi đỗ đình nguyên về đời vua Dực tông, quan làm đến chức ngự sử bị bọn quyền thần là Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết cách chức đuổi về. Sau ông ấy đứng đầu đảng văn thân để chống cự với quân Pháp. Ông không những là một người có tài văn chương mà thôi, mà lại là một nhà có thao lược, sửa sang quân lính có cơ ngũ, luyện tập tướng sĩ có kỷ luât, cho nên đại uý Gosselin làm quyển sách “Empire d’ Annam” có khen rằng: “Quan Đình nguyên Phan Đình Phùng có tài kinh doanh việc quân binh, biết luyện tập sĩ tốt theo phép Thái Tây, áo quần mặc một lối và đeo súng kiểu 1874, những súng ấy là súng của người quan Đình nguyên đúc ra thật nhiều mà máy móc cũng hệt như súng Pháp chỉ vì lòng súng không xẻ rãnh, cho nên đạn không đi xa được”.
Đến cuối trung tuần tháng 11 năm quí tị (1893), ông sai người đến vây nhà tên Trương Quang Ngọc ở làng Thanh Lang, huyện Tuyên Hoá, bắt tên Ngọc chém lấy đầu để báo thù về việc tên ấy làm sự phản ác. Từ đó quân của quan Đình nguyên vẫy vùng ở mạn Hương Khê, đảng văn thân cũ lại về tụ họp ở đấy.
Bấy giờ người Pháp không muốn dùng đại binh sợ náo động lòng người ở bên Pháp, cho nên chỉ sai quan đem lính tập bị đánh. Đánh từ cuối năm quí tị (1893) cho đến cuối năm ất vị (1895) ngót 2 năm trời mà không dẹp yên được, quân lính chết hại cũng nhiều. Bên Bảo hộ cũng đã tìm đủ mọi cách, như bảo Hoàng Cao Khải viết thư dụ Phan Đình Phùng về hàng cho xong cũng không được. Sau cùng Triều đình ở Huế thấy việc dai dẳng mãi không yên, mới xin chính phủ Bảo hộ để sai quan Tổng đốc Bình Định là Nguyễn Thân làm Khâm mạng tiết chế quân vụ đem quân ra tiễu trừ. Ông Phan Đình Phùng lúc bấy giờ tuổi đã già, mà thế lực mỗi ngày một kém, lại phải nay ẩn chỗ này, mai chạy chỗ kia, thật là lao khổ vô cùng, bởi vậy khi Nguyễn Thân đem quân ra đến Hà Tĩnh, thì ông đã phải bệnh mất rồi. Nguyễn Thân sai người đuổi đánh, tìm thấy mả, đào lấy xác đem về xin người Pháp cho đem chôn, vì muốn để làm cái tang chứng cho đảng phản đối với chính phủ Bảo hộ là quan Đình nguyên đã mất rồi. Từ đó đảng văn thân tan vỡ, ai trốn đi mất thì thôi, ai ra thú thì phải về Kinh chịu tội.
Nguyễn Thân về Kinh được thăng làm Phụ chính thay cho ông Nguyễn Trọng Hợp về hưu.
9. LÒNG YÊU NƯỚC CỦA NGƯỜI VIỆT NAM. Người Việt Nam vì hoàn cảnh, vì tình thế bắt buộc phải im hơi lặng tiếng, nhưng lòng ái quốc mỗi ngày một nồng nàn, sự uất ức đau khổ mỗi ngày một tăng thêm. Cho nên cứ cách độ năm bảy năm lại có một cuộc phiến động [5], như sau việc Phan Đình Phùng rồi, có việc Kỳ Đồng và việc Thiên Bình vào khoảng 1897 – 1898 ở vùng Thái Bình, Hải Dương, Bắc Ninh v.v... Vào quãng năm 1907 ở Hà Nội có việc Đông kinh nghĩa thục.Lúc ấy có những người chí sĩ như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, người thì không sợ tù tội, đứng lên tố cáo sự tham nhũng của bọn quan lại, người thì ra ngoại quốc bôn ba khắp nơi để tìm cách giải phóng cho nước. Năm 1908, ở Trung Việt, vùng Nghệ Tĩnh và Nam Nghĩa có việc dân nổi lên kêu sưu. Ở Hà Nội thì có việc đầu độc lính Pháp, rồi ở Thái Nguyên, Hoàng Hoa Thám lại nổi lên đánh phá.
Khi bên Âu châu có cuộc đại chiến thì bên ta lại có việc đánh phá ở Sơn La và Sầm Nứa và việc vua Duy Tân mưu sự độc lập, bị bắt đầy sang ở đảo Réunion. Thế là nước Việt Nam bấy giờ có ông vua bị đày: vua Hàm Nghi đày sang xứ Algérie, vua Thành Thái và vua Duy Tân đày sang ở đảo Réunion.
Đây chỉ nói qua cái đại lược một đoạn lịch sử của nước Việt Nam, để dành về sau nhà làm sử sẽ tìm đủ tài liệu mà chép cho rõ ràng và phê bình cho chính đáng.
---------------------------------
* Chú thích:
[1] “Đánh dẹp”, đây là một khái niệm sai do hạn chế bởi sách viết ra trong thời Pháp thuộc và quan điểm của tác giả. Theo chính sử hiện nay, thực chất là cuộc đàn áp phong trào Cần Vương của thực dân Pháp.
[2] Những chuyện nói về việc bắt vua Hàm Nghi là phần nhiều lấy ở trong sách “Empire d’ Annam” của đại uý Gosslin, cho nên những tên làng tên đất nói ở đoạn này viết không được đúng dấu. Nhưng đại để là những làng mường ở vùng sông Gianh, thuộc huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình.
[3] Hiện nay vua Hàm Nghi còn ở Algérie, và đã lấy một người nước Pháp, được mấy đứa con.
[4] Hai bức thư ấy dịch ra chữ Pháp in ở trong sách “Empire d’ Annam” của đại uý Gosselin. Lời lẽ thì thật là cương nghị đáng bậc thiếu niên anh hùng. Nhưng vì thư ấy đã dịch ra chữ Pháp nếu nay lại theo chữ Pháp mà dịch ra chữ ta thì sợ không đúng với bản chính, cho nên không đem vào đây.
[5] Phiến động, đây là khái niệm sai, do hạn chế của tác giả, đồng thời do sách viết trong thời Pháp thuộc. Thực chất, theo chính sử hiện nay, đấy là những cuộc nổi dậy chống ách xâm lăng.
(Xem tiếp kỳ sau)