A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Cận kim thời đại – Nhà Nguyễn. Chương XII. Cuộc bảo hộ của nước Pháp

(Tiếp theo kỳ trước)

QUYỂN V
CẬN KIM THỜI ĐẠI

NHÀ NGUYỄN
(1802 – 1945)

CHƯƠNG XII
CUỘC BẢO HỘ [1] CỦA NƯỚC PHÁP

1. SỰ PHẾ LẬP Ở HUẾ: VUA HIỆP HOÀ. Bản triều nhà Nguyễn truyền ngôi đến hết đời vua Dực Tông thì mất quyền tự chủ. Nước Nam tự đó thuộc về nước Pháp bảo hộ. Nghĩa là ngôi nhà vua tuy vẫn còn, nhưng chính trị phải theo chính phủ Bảo hộ xếp đặt.

Ấy cũng vì thời đại biến đổi mà người mình không biết biến đổi, cho nên nước mình mới thành ra suy đồi. Vả lúc ấy ở ngoài Bắc thì rối loạn, ở trong Triều thì quyền thần chuyên chế, bởi vậy cho nên lại sinh ra lắm việc khó khăn. Vua Dực Tông không có con, nuôi 3 người cháu làm con nuôi: trưởng là ông Dục Đức [2], phong Thuỵ quốc công, thứ là ông Chánh Mong, phong Kiên Giang quận công, ba là ông Dưỡng Thiện. Khi ngài sắp mất, có để di chiếu nói rằng: đức tính ông Dục Đức không đáng làm vua, mà ý ngài muốn lập ông Dưỡng Thiện, nhưng vì ông ấy còn bé, mà việc nước cần có vua lớn tuổi, cho nên ngài phải lập con trưởng. Ngài lại cho Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết làm phụ chính.

Được ba ngày thì Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đổi tờ di chiếu, bỏ ông Dục Đức mà lập em vua Dực Tông là Lạng quốc công lên làm vua. Triều thần ngơ ngác, không ai dám nói gì, chỉ có quan ngự sử Phan Đình Phùng đứng dậy can rằng: “Tự quân chưa có tội gì mà làm sự phế lập như thế, thì sao phải lẽ”. Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đem bắt giam ông Phan Đình Phùng rồi cách chức đuổi về.

Lạng quốc công, huý Hồng Dật lên làm vua, đặt niên hiệu là Hiệp Hoà. Còn ông Dục Đức thì đem giam ở Dục Đức giảng đường.

2. QUÂN PHÁP LẤY CỬA THUẬN AN. Vua Hiệp Hoà vừa lập xong, thì viên Toàn quyền mới là ông Harmand đến Hải Phòng, rồi hội Hải quân Thiếu tướng Courbet và lục quân Thiếu tướng Bouet, để bàn định mọi việc.

Định một mặt thì Thiếu tướng Bouet đem quân lên đánh lấy đồn Phủ Hoài; một mặt thì thiếu tướng Courbet đem tàu vào đánh lấy cửa Thuận An, để bắt triều đình phải nhận nước Pháp bảo hộ.

Ngày 12 tháng 7, Thiếu tướng Boubet lên đánh quân cờ đen ở mạn làng Vòng. Hai bên đánh nhau non ba ngày trời. Sau quân cờ đen phải lùi lên đóng ở đồn Phùng. Nhưng vì lúc bấy giờ nước lũ lên to, đê vỡ cho nên quân Pháp không tiến lên được.

Ngày 16, lục quân trung tá Brionval ở Hải Phòng đem quân lên lấy thành Hải Dương.

Quân Pháp tuy thắng, nhưng quân cờ đen còn mạnh, nên chí Thiếu tướng Bouet phải điện về Paris xin thêm quân tiếp ứng.

Trong khi lục quân Thiếu tướng Bouet tiến quân đánh tại Bắc kỳ, thì Hải quân Thiếu tướng Courbet cùng với viên toàn quyền Harmand đem tàu vào đánh cửa Thuận An, từ ngày 15 đến ngày 18 tháng bảy thì thành Trấn Hải vỡ. Quan trấn thành là Lê Sĩ, Lê Chuẩn tử trận, Lâm Hoành, Trần Thúc Nhẫn thì nhảy xuống sông tự tử.

3. HOÀ ƯỚC NĂM QUÍ MÙI (1883). Triều đình thấy sự nguy cấp, liền sai quan ra xin hoà. Viên Toàn quyền Harmand bắt quan ta phải giải binh cả mọi nơi, rồi cùng với ông De Champeaux lên Huế để nghị hoà. Triều đình sai quan Hiệp biện hưu trí là Trần Đình Túc làm Khâm sai toàn quyền, và Nguyễn Trọng Hợp làm phó, để cùng với quan Pháp hội nghị.

Ngày 23 tháng 7 thì tờ hoà ước lập xong, có chữ ông Harmand, ông De Champeaux, ông Trần Đình Túc và ông Nguyễn Trọng Hợp cùng ký.

Tờ hoà ước ấy có 27 khoản: Khoản thứ nhất nói rằng: Nước Nam chịu nhận nước Pháp bảo hộ, có việc gì giao thiệp với ngoại quốc, thì phải do nước Pháp chủ trương. Khoản thứ hai: Tỉnh Bình Thuận thuộc về Nam kỳ. Khoản thứ ba: Quân Pháp đóng giữ ở núi đèo Ngang và ở Thuận An. Khoản thứ sáu: Từ tỉnh Khánh Hoà ra tới đèo Ngang thì quyền cai trị thuộc về Triều đình.

Nhưng khoản sau nói rằng viên khâm sứ ở Huế được quyền tự do ra vào yết kiến nhà vua. Còn đất Bắc kỳ kể từ đèo Ngang trở ra thì nước Pháp đặt công sứ ở các tỉnh để kiểm soát công việc của quan Việt Nam. Nhưng người Pháp không dự vào việc cai trị ở trong hạt.

Tờ hoà ước ấy ký xong, gửi về Paris để chính phủ duyệt y, rồi mới hỗ giao, nghĩa là mới tuyên cáo cho thiên hạ biết. Ông De Champeaux ở lại Huế làm khâm sứ, viên Toàn quyền Harmand ra Bắc kỳ để kinh lý việc đánh dẹp.

4. VIỆC Ở BẮC KỲ. Triều đình ở Huế nhận hoà ước xong rồi, sai quan Lại bộ Thượng thư Trần Văn Chuẩn và quan Lại bộ tham tri Hồng Phì làm phó khâm sai, ra Bắc kỳ để cùng với viên Toàn quyền Harmand hiểu dụ nhân dân và bãi quân thứ ở các nơi.

Bấy giờ ở Bắc kỳ có quan nhà Thanh là Đường Cảnh Tùng đóng ở Sơn Tây, Từ Diên Húc đóng ở Bắc Ninh, lại có quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc đóng ở đồn Phùng.

Triều đình tuy có chỉ ra truyền cho quan ta phải rút quân về Huế, nhưng quan ta còn có nhiều người muốn ỷ nước Tàu mà chống giữ với quân Pháp, cho nên không ai phụng chỉ. Bởi vậy cuộc chiến tranh ở Bắc kỳ mãi không xong được.

5. VUA HIỆP HOÀ BỊ GIẾT. Ở trong Huế thì vua Hiệp Hoà cũng muốn nhờ chính sách bảo hộ để cho yên ngôi vua, nhưng các quan có nhiều người không chịu, và lại thấy Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chuyên chế thái quá, muốn dùng kế mà trừ bỏ đi, bèn đổi Nguyễn Văn Tường sang làm Binh bộ Thượng thư, Tôn Thất Thuyết làm Lại bộ Thượng thư, để bớt binh quyền của Tôn Thất Thuyết.

Hai người thấy vua có lòng nghi, sợ để lâu thành vạ, bèn vào tâu với bà Từ Dụ Thái hậu để lập ông Dưỡng Thiện là con nuôi thứ ba vua Dực tông, rồi bắt vua Hiệp Hoà đem ra phủ ông Dục Đức cho uống thuốc độc chết. Vua Hiệp Hoà làm vua được hơn 4 tháng, sử gọi là Phế đế.

Nguyễn Văn Tường là Tôn Thất Thuyết đã giết vua Hiệp Hoà rồi, lại thấy quan Phụ chính Trần Tiễn Thành không theo ý mình, cũng sai người giết nốt.

6. VUA KIẾN PHÚC. Ngày mồng 7 tháng 10 năm Quí Mùi (1883), ông Dưỡng Thiện, huý là Ưng Đăng lên ngôi làm vua, đặt niên hiệu là Kiến Phúc. Bấy giờ ngài mới có 15 tuổi, việc gì cũng ở Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết quyết định cả.

Ở Bắc kỳ thì Hoàng Kế Viêm còn đóng tại Sơn Tây, Trương Quang Đản còn đóng tại Bắc Ninh, cùng với quân Tàu chống giữ quân Pháp. Viên Khâm sứ ở Huế lấy điều đó trách Triều đình. Triều đình lại có dụ ra truyền cho Hoàng Kế Viêm và Trương Quang Đản phải về Kinh.

Các quan bấy giờ cũng có ông về, cũng có ông nộp ấn trả Triều đình, rồi hoặc đi chiêu mộ những nghĩa dũng, hoặc đi theo quan nhà Thanh, để chống nhau với quân Pháp. Bấy giờ có quan Đề đốc Nam Định là Tạ Hiện lãnh chức Đề đốc của Tàu, và quan Án sát sứ Phạm Vụ Mẫn và quan tri phủ Kiến Xương Hoàng Văn Hoè bỏ chức mà đi: quan Tán tương quân vụ ở Sơn Tây là Nguyễn Thiện Thuật bỏ về Hải Dương, đi mộ quân để chống với quân Pháp.

7. SỰ ĐÁNH LẤY CÁC TỈNH Ở BẮC KỲ. Viên Toàn quyền Harmand ra Bắc kỳ sửa sang sự cai trị, lập ra những đội lính tuần cảnh, tục gọi là lính khố xanh, để phòng giữ các nơi, và bãi lính cờ vàng của Thiếu tướng Bouet đã cho mộ được mấy trăm, vì những lính ấy hay cướp phá dân gian. Nhưng vì viên Toàn quyền xâm vào quyền quan binh, cho nên Thiếu tướng Bouet lấy làm bất bình.

Ngày mồng một tháng tám, Thiếu tướng đem quân lên đánh cờ đen ở đồn Phùng. Hai bên đánh nhau rất dữ. Quân cờ đen tuy phải lui nhưng chưa thực thua. Thiếu tướng thấy đánh giặc chưa được và lại có ý bất hoà với viên Toàn quyền, bèn xin về Pháp, giao binh quyền lại cho lục quân đại tá Bichot.

Được ít lâu, có quân tiếp ở Sài Gòn ra, đại tá Bichot bèn vào lấy tỉnh Ninh Bình.

8. LẤY TÂY SƠN. Ngày 25 tháng chín, chính phủ Pháp điện sang cho Hải quân Thiếu tướng Courbet làm thống đốc quân vụ, kiêm chức Toàn quyền ở Bắc kỳ. Viên nguyên Toàn quyền Harmand xin về Pháp.

Từ đó việc binh nhung, việc cai trị và việc giao thiệp, ở cả tay Thiếu tướng Courbet. Trong khi Thiếu tướng còn phải sửa sang mọi việc và đợi quân tiếp ở Pháp sang thì quan ta đem quân về đánh Hải Dương, đốt phá cả phố xá. Quan Pháp nghi tỉnh thần thông với văn thân, bèn bắt đày vào Côn Lôn.

Đến khi Thiếu tướng tiếp được quân ở bên Pháp sang, số quân Pháp ở Bắc kỳ bấy giờ được hơn 9.000 người, Thiếu tướng chia ra làm hai đạo, đem cả thuỷ bộ tiến lên đánh thành Sơn Tây. Đánh từ sáng ngày 13 đến hết ngày 16 mới hạ được thành. Quân cờ đen chống giữ hăng lắm, nhưng quân Tàu và quân ta thấy súng của Pháp bắn lên mạnh quá, đều bỏ thành rút lên mạn ngược, quân cờ đen cũng phải chạy theo. Trận ấy quân Pháp bị 83 người tử trận và 319 người bị thương.

9 LẤY THÀNH BẮC NINH. Quân Pháp tuy đã lấy được Sơn Tây, nhưng quân Tàu càng ngày càng sang đông, Thiếu tướng phải chờ có quân tiếp thêm mới đi đánh chỗ khác. Bên Pháp lại sai một lữ đoàn [3] sang Bắc kỳ và sai lục quân Trung tướng Millot sang làm thống đốc quân vụ thay cho Hải quân Thiếu tướng Courbet.

Ngày 16 tháng giêng năm Giáp Thân (1884), thống tướng Millot sang nhận chức, Thiếu tướng Courbet được thăng lên Hải quân Trung tướng và lại ra coi Hải quân để giữ mặt bể. Bấy giờ quân Pháp cả thảy được hơn 1 vạn 6 nghìn người và 10 đội pháo thủ, chia ra làm 2 lữ đoàn. Một lữ đoàn ở bên hữu ngạn sông Hồng Hà thì đóng ở Hà Nội, có Thiếu tướng Brière de l’ Isle coi; một lữ đoàn ở bên tả ngạn sông Hồng Hà, thì đóng ở Hải Dương, có Thiếu tướng De Négrier coi.

Bấy giờ con đường từ Hà Nội sang Bắc Ninh, chỗ nào cũng có quân Tàu và quân ta đóng. Thống tướng Millot bèn truyền lệnh cho Thiếu tướng Brière de l’ Isle đem quân qua sông Hồng Hà, rồi theo sông Đuống (tức là sông Thiên Đức) đi về phía đông. Còn toán quân của Thiếu tướng De Négrier ở Hải Dương, đi tàu đến Phải Lại lên bộ, để tiếp vào với toán quân của Thiếu tướng Brière de l’ Isle, rồi cả thuỷ bộ theo sông Cầu (sông Nguyệt Đức) tiến lên đánh Bắc Ninh.

Hai bên khởi sự đánh nhau từ ngày 11 tháng 2 đến ngày 16, thì lấy được Đáp Cầu. Quân Tàu thấy quân Pháp chặn mất đường lên Lạng Sơn, bèn bỏ Bắc Ninh rút lên mạn Thái Nguyên. Tối ngày 16, thì quân Pháp vào thành Bắc Ninh. Trận ấy quân Pháp chỉ mất có 8 người và 40 người bị thương mà thôi.

Thiếu tướng Brière de l’ Isle đem quân lên đánh Yên Thế, rồi đến ngày 23 thì lên lấy thành Thái Nguyên.

10. LẤY HƯNG HOÁ. Hạ được thành Bắc Ninh và thành Thái Nguyên rồi, quân Pháp quay về mạn sông Hồng Hà để đánh lấy Hưng Hoá và Tuyên Quang. Thiếu tướng Brière de l’ Isle đem lữ đoàn thứ nhất theo con đường Sơn tây lên Hưng Hoá, rồi dàn trận ở bên này sông Đà Giang. Hai bên khởi sự đánh nhau từ sáng ngày rằm tháng 3 đến 2 giờ chiều ngày hôm ấy thì quân Pháp sang sông ở chỗ gần địa hạt huyện Bất Bạt. Chín giờ sáng ngày 16, thì Thiếu tướng De Négrier đem lữ đoàn thứ nhì tiếp đến, cả hai lữ đoàn cùng hiệp sức tiến lên đánh. Quân Tàu và quân cờ đen thấy thế không chống được, bèn đốt cả phố xá, rồi bỏ thành Hưng Hoá rút lên mạn ngược. Còn bọn ông Hoàng Kế Viêm thì kéo lên mạn núi, rồi đi đường thượng đạo rút về Kinh. Trưa ngày 17 thì quân Pháp vào thành Hưng Hoá. Lập tức thiếu tá Coronnat đem một toán quân lên đánh phá đồn Vàng.

11. LẤY TUYÊN QUANG. Lấy xong Hưng Hoá rồi, chỉ còn có thành Tuyên Quang là chỗ quân cờ đen còn đóng giữ. Thống tướng Millot bèn sai quân đem tàu đi đò xem sông Lô Giang tàu thuỷ lên được đến đâu. Đoạn rồi sai trung tá Duchesne đem đạo quân ở Hưng Hoá và một đội năm chiếc tàu binh lên đánh Tuyên Quang. Quân của trung tá Duchesne đóng ở Việt Trì khởi hành từ hôm mồng 3 tháng 5 đến ngày mòng 8 thì đến Tuyên Quang. Chỉ đánh độ một giờ đồng hồ thì quân cờ đen bỏ thành chạy.

12. HOÀ ƯỚC FOURNIER. Bấy giờ tuy các tỉnh ở mạn trung châu đất Bắc kỳ đều thuộc về quan Pháp cai quản cả, nhưng quân Tàu còn đóng ở Lạng Sơn, Cao Bằng và mạn Lao Kay. Bởi vậy chính phủ Pháp muốn dùng cách giao thiệp mà trang trải với nước Tàu, để chính phủ Tàu nhận cuộc bảo hộ của nước Pháp ở nước Nam cho xong. Lại nhân bấy giờ có Hải quân trung tá Pháp tên là Fournier quen một người nước Đức tên là Détring làm quan bên Tàu coi việc thương chánh ở Quảng Đông. Détring vốn thân với quan Tổng đốc Trực Lệ là Lý Hồng Chương. Một hôm Détring gặp trung tá Fournier nói chuyện việc hoà với nước Tàu, Détring điện về cho Lý Hồng Chương biết. Hai bên đều có ý muốn cho êm chuyện.

Chính phủ Pháp bèn sai Trung tá Fournier lên Thiên Tân để cùng với Lý Hồng Chương nghị hoà. Đến ngày 18 tháng 4, năm Giáp Thân (1884) thì lập xong tờ hoà ước. Đại lược nói rằng nước Tàu thuận rút quân đóng ở Bắc kỳ về, và từ đấy về sau chính phủ Tàu thuận nhận tờ giao ước của nước Pháp lập với nước Nam. Nghĩa là nước Tàu để cho nước Pháp được tự do xếp đặt mọi việc ở đất Việt Nam.

13. HOÀ ƯỚC PATENNÔTRE, THÁNG 5 NĂM GIÁP THÂN (1884). Tờ giao ước ký xong thì trung tá Fournier điện cho thống tướng Millot ở Bắc kỳ biết sự hoà ước đã xong, mà quân Tàu ở Bắc kỳ phải rút về.

Lúc bấy giờ công sứ nước Pháp ở Bắc Kinh là ông Patenôtre ở bên Pháp sang, đi qua đến Sài Gòn, chính phủ ở Paris điện sang sai ông ấy ra Huế sửa lại tờ hoà ước của ông Harmand đã ký ngày 23 tháng 7 năm Quí Mùi (1883).

Ông Patenôtre và ông Rheinart ra Huế cùng với Triều đình thương nghị mấy ngày, rồi đến ngày 13 tháng 5 năm Giáp Thân là ngày mồng 6 tháng sáu năm 1884, ông Patenôtre cùng với ông Nguyễn Văn Tường, ông Phạm Thận Duật và ông Tôn Thất Phan ký tờ hoà ước của ông Harmand, chỉ đổi có mấy khoản nói về tỉnh Bình Thuận và 3 tỉnh ở ngoài đèo Ngang là Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hoá vẫn thuộc về Trung kỳ.

Tờ hoà ước ký xong, ông Rheinart ở lại làm khâm sứ ở Huế, và ông Patenôtre hội cả các quan, bắt đem cái ấn của tàu phong cho vua Việt Nam, thụt bễ nấu lên mà huỷ đi, nghĩa là từ đó nước Nam thuộc về nước Pháp bảo hộ, chứ không thần phục nước Tàu nữa.

Hoà ước ký năm Giáp Thân là năm 1884, là hoà ước của Triều đình ở Huế ký với nước Pháp công nhận cuộc bảo hộ của Pháp và chia nước ra làm hai khu vực là Trung kỳ và Bắc kỳ. Tuy hai kỳ cũng thuộc về quyền bảo hộ của nước Pháp, nhưng mỗi kỳ có một cách cai trị khác, về sau dần dần hoà ước năm 1884 cũng mất cả ý nghĩa, và thực quyền về chính phủ bảo hộ hết cả. Triều đình ở Huế chỉ giữ cái hư vị mà thôi.

Nước Việt Nam trước kia, từ Nam chí Bắc là một, có cái tính cách duy nhất hơn cả các nước khác. Văn hoá, lịch sử, phong tục, ngôn ngữ đều là một cả, mà nay thành ra ba xứ: Nam kỳ, Trung kỳ và Bắc kỳ; mỗi kỳ có một chính sách riêng, luật lệ riêng như ba nước vậy. Thậm chí lúc đầu người kỳ này đi sang kỳ kia phải xin giấy thông hành mới đi được. Kỳ nghĩa là xứ, là khu trong một nước, chứ không có nghĩa là nước.

Một nước mà tam phân ngũ liệt ra như thế, thật là một mối đau lòng cho người Việt Nam là dân một nước đã có một lịch sử vẻ vang hàng mấy nghìn năm.

14. VIỆC TRIỀU CHÍNH Ở HUẾ. Triều đình lúc bấy giờ việc gì cũng do hai quan phụ chính là Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết định đoạt.

Tôn Thất Thuyết là người tính nóng nảy, dữ dội, ai cũng khiếp sợ. Nhưng tài năng thì kém, mà lại nhát gan, cho nên đa nghi và hay chém giết. Nguyễn Văn Tường là người ở Quảng trị, thi đỗ cử nhân năm Tự Đức thứ 5, thật là một người có tài trí, giỏi nghề giao thiệp, nhưng chỉ có tính tham lam và lại tàn nhẫn.

Hai ông ấy chuyên giữ triều chính. Quan lại thì ở tay ông Tường, binh quyền thì ở tay ông Thuyết. Nhưng mà thường việc gì cũng do ở ông Thuyết xui khiến cả. Trong triều từ hoàng thân quốc thích cho đến các quan, ai có điều gì trái ý hai ông ấy là bị giam chấp hay chém giết cả.

Ông Thuyết thì mộ quân phấn nghĩa để giữ mình, và thường hay tiếm dùng nghi vệ của vua; ông Tường thì chịu tiền hối lộ của những người Khách, cho chúng nó đem tiền sềnh, là một thứ tiền niên hiệu Tự Đức, mỏng và xấu, đúc ở bên Tàu đem sang, bắt dân phải tiêu. Ai không tiêu thì phải tội. Vả lúc ấy vua hãy còn trẻ tuổi chưa biết gì, cho nên hai ông lại càng chuyên chế lắm nữa.

Vua Kiến Phúc lên ngôi vừa được hơn 6 tháng, đến ngày mồng 6 tháng tư năm Giáp Thân (1884) thì phải bệnh mất, miếu hiệu là Giản tông Nghị hoàng đế.

15. VUA HÀM NGHI. Vua Kiến Phúc mất, đáng lẽ ra con nuôi thứ hai của vua Dực tông là ông Chánh Mông lên nối ngôi thì phải. Nhưng Tường và Thuyết không muốn lập người lớn tuổi, sợ mình mất quyền, bèn chọn người em ông Chánh Mông là ông Ưng Lịch, mới 12 tuổi, lập lên làm vua, đặt niên hiệu là Hàm Nghi.

Viên Khâm sứ Rheinart trước đã tư giấy sang cho Triều đình Huế rằng: Nam triều có lập ai lên làm vua, thì phải xin phép nước Pháp mới được. Nhưng Tường và Thuyết cứ tự tiện lập vua, không cho viên Khâm sứ biết.

Viên Khâm sứ thấy vậy, viết thư ra Hà Nội. Thống tướng Millot bèn sai chức tham mưu là đại tá Guerrier đem 600 quân và một đội pháo binh vào Huế, bắt triều đình phải xin phép lập ông Ưng Lịch lên làm vua. Tường và Thuyết làm tờ xin phép bằng chữ nôm gửi sang bên Khâm sứ. Viên Khâm sứ không nghe, bắt phải làm bằng chữ nho. Đến ngày 27 tháng 6, đại tá và viên Khâm sứ đi cửa chính vào điện làm lễ phong vương cho vua Hàm Nghi. Xong rồi quân Pháp lại trở ra Hà Nội.

----------------------------------

* Chú thích:

[1] Đây là hạn chế của tác giả hoặc do quan điểm hoặc do sách viết dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Thực chất, theo chính sử hiện nay, là hành động xâm lược nước ta.

[2] Dục Đức, Chánh Mông, Dưỡng Thiện là tên nhà học của những ông Hoàng con nuôi vua Dực Tông gọi là Dục Đức đường. Chánh Mông đường,.... Lúc các ông Hoàng ấy chưa được phong thì người ta cứ lấy tên nhà học mà gọi.

[3] Mỗi lữ đoàn có hai vệ quân, độ chừng bảy tám nghìn người, có chức Thiếu tướng coi. Hai lữ đoàn là một sư đoàn, có chức Trung tướng coi.

(Xem tiếp kỳ sau)


Tin liên quan

noData
Không có dữ liệu

Tin tiêu điểm

noData
Không có dữ liệu