A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Cận kim thời đại – Nhà Nguyễn. Chương X. Tình thế nước Nam

(Tiếp theo kỳ trước)

QUYỂN V
CẬN KIM THỜI ĐẠI

NHÀ NGUYỄN
(1802 – 1945)

CHƯƠNG X
TÌNH THẾ NƯỚC NAM
TỪ NĂM GIÁP TUẤT VỀ SAU

1. VĂN THÂN NỔI LOẠN Ở NGHỆ AN. Nhờ có ông Philastre và ông Nguyễn Văn Tường thu xếp mọi việc Bắc kỳ vừa xong, thì ở mạn Nghệ Tĩnh có loạn.

Nguyên lúc bấy giờ dân trong nước ta chia ra làm hai phái: bên lương, bên giáo; hai bên vẫn không ưa nhau. Đến khi xảy ra việc đại uý Francis Garnier lấy Hà Nội, bọn sĩ phu ở mạn Nghệ Tĩnh lấy làm tức giận lắm, bèn rủ nhau nổi lên đánh phá.

Tháng giêng năm Giáp Tuất (1874), là năm Tự Đức thứ 27, đất Nghệ An có hai người tú tài là Trần Tấn và Đặng Như Mai hội tập cả các văn thân trong hạt, rồi làm một bài hịch gọi là “Bình tây sát tả”, đại lược nói rằng: “Triều đình dẫu hoà với Tây mặc lòng, sĩ phu nước Nam vẫn không chịu, đánh đuổi người Tây cho hết, để giữ lấy cái văn hoá của ta đã hơn 1.000 năm nay...”

Lúc bấy giờ quan Tổng đốc Nghệ An là ông Tôn Thất Triệt lại có ý dung túng bọn Văn Thân, cho nên họ càng đắc thế càng phá dữ. Triều đình thấy vậy, mới truyền bắt quan quân phải dẹp cho yên. Bọn Văn Thân thấy quan quân đuổi đánh, bèn cùng với bọn Trần Quang Hoán, Trương Quang Thủ, Nguyễn Duy Điển đánh lấy thành Hà Tĩnh, rồi ra vây phủ Diễn Châu.

Triều đình thấy thế giặc càng ngày càng to, bèn sai ông Nguyễn Văn Tường ra làm khâm sai, và ông Lê Bá Thận làm tổng thống, đem quân ra đánh dẹp, từ tháng hai đến tháng 6 mới xong.

2. GIẶC Ở BẮC KỲ. Thủa ấy ở mạn Thượng du đất Bắc Kỳ lúc nào cũng có giặc, quan quân đánh mãi không được, phải nhờ quân Tàu sang đánh giúp cũng không xong.

Ở mạn Hải Dương và Quảng Yên thì vẫn có những người mạo xưng là con cháu nhà Lê, cứ quấy rối mãi. Khi Francis Garnier ra lấy Hà Nội, những người ấy về xin theo đi đánh quân ta, nhưng vì sau nước Pháp phải trả lại các tỉnh ở Bắc kỳ, họ lại tản đi. Vả từ khi nước ta và nước Pháp đã ký hoà ước rồi, quan Pháp có đem binh thuyền đi đánh giúp, cho nên mới tiệt được đảng ấy.

Còn ở mạn Tuyên Quang, thì có giặc cờ vàng nhũng nhiễu đã lâu. Quan quân phải đánh dẹp mãi không được. Đến tháng 8 năm Ất Hợi (1875), là năm Tự Đức thứ 28, tướng cờ vàng là Hoàng Sùng Anh đem quân về đóng ở làng Châu Thượng, thuộc phủ Vĩnh Tường. Bấy giờ quan Tán tương quân vụ tỉnh Sơn Tây là Tôn Thất Thuyết về đánh một trận, bắt đường Hoàng Sùng Anh và giết được quân cờ vàng rất nhiều. Giặc ấy từ đó tan dần.

Năm sau Tôn Thất Thuyết lại giết được tên giặc Trận ở làng Cổ Loa, và dẹp yên được mạn Sơn Tây. Nhưng đến năm Mậu Dần (1878), ở Lạng Sơn lại có tên giặc Khách là Lý Dương Tài, nổi lên.

Lý Dương Tài trước làm quan hiệp trấn ở Tầm Châu, thuộc tỉnh Quảng Tây, sau bị cách mới nổi lên làm giặc và đem quân tràn sang đánh lấy tỉnh Lạng Sơn. Quan ta đem thư sang cho quan Tàu biết. Quan Đề đốc Quảng Tây là Phùng Tử Tài đem quân 26 doanh sang cùng với quân ta hội tiễu. Đến tháng 9 năm Kỷ Mão (1879) quan quân mới bắt được Lý Dương Tài ở núi Nghiêm Hậu, thuộc tỉnh Thái Nguyên, đem giải sang Tàu.

Vì đất Bắc kỳ cứ có giặc giã luôn cho nên Triều đình đặt ra chức Tĩnh biên sứ để giữ các nơi về đường ngược. Năm Canh Thìn (1880), đặt ra Lạng Giang đạo và Đoan Hùng đạo sai hai Tĩnh biên phó sứ là Trương Quang Đản đóng ở Lạng Sơn và Nguyễn Hữu Độ đóng ở Đoan HÙng, lại phong cho Hoàng Kế Viêm là Tĩnh biên sứ, kiêm cả hai đạo.

3. SỰ GIAO THIỆP VỚI NƯỚC TÀU. Nước ta tự xưa đến nay tuy là độc lập, nhưng vẫn giữ lệ triều cống nước Tàu, lấy cái nghĩa rằng nước nhỏ phải tôn kính nước lớn. Cho nên khi chiến tranh, dẫu ta có đánh được Tàu đi nữa, thì rồi nhà nào lên làm vua cũng phải theo cái lệ ấy, mà đời nào cũng lấy điều đó làm tự nhiên vì rằng triều cống cũng không tổn hại gì mấy, mà nước vẫn độc lập và lại không hay có việc lôi thôi với một nước láng giềng mạnh hơn mình. Bởi vậy hễ vua nào lên ngôi, cũng chiếu lệ sai sứ sang Tàu cầu phong, và cứ ba năm sai sứ sang cống một lần.

Các vua đời nhà Nguyễn cũng theo lệ ấy, nhưng các đời vua trước thì vua phải ra Hà Nội mà tiếp sứ Tàu và thụ phong. đến đời vua Dực Tông thì sứ Tàu vào tại Huế phong vương cho ngài.

Còn những cống phẩm thì cứ theo lệ, mà thường chỉ đưa sang giao cho quan Tổng đốc Lưỡng Quảng để đệ về Kinh, chứ không mấy khi sứ ta sang đến Yên Kinh. Trong đời vua Dực Tông thì sử chép rằng năm Mậu Thìn (1868), có ông Lê Tuấn, ông Nguyễn Tư Giản và ông Hoàng Tịnh sang sứ Tàu. Năm Quí Dậu (1873), lại có các ông Phan Sĩ Thục, ông Hà Văn Khai, và ông Nguyễn Tu sang sứ Tàu, để bày tỏ việc đánh giặc Khách ở Bắc Kỳ.

Từ năm Giáp Tuất (1874) trở đi. Triều đình ở Huế đã ký tờ hoà ước với nước Pháp, công nhận nước Nam độc lập, không thần phục nước nào nữa, những lúc bấy giờ vì thế bất đắc dĩ mà ký tờ hoà ước, chứ trong bụng vua Dực Tông vẫn không phục, cho nên ngài cứ theo lệ cũ mà triều cống nước Tàu, có ý mong khi hữu sự nước Tàu sang giúp mình. Bởi vậy năm Bính Tí (1876), vua Dực Tông sai ông Bùi Ân Niên tức là ông Bùi Dỵ, ông Lâm Hoành và ông Lê Cát sang sứ nhà Thanh. Năm Canh Thìn (1880), lại sai các ông Nguyễn Thuật, Trần Khánh Tiến, Nguyễn Hoan sang Yên Kinh dâng biểu xưng thần và các đồ cống phẩm. Năm sau, Triều đình nhà Thanh sai Đường Đình Canh sang Huế bàn việc buôn bán và lập cuộc chiêu thương, chủ ý là để thông tin cho chính phủ Tàu biết mọi việc bên nước ta.

Một bên đã hoà với nước Pháp, nhận theo chính lược ngoại giao của nước Pháp mà độc lập [1], một bên cứ triều cống nước Tàu, có ý để cầu viện, bởi thế cho nên chính phủ Pháp lấy điều đó mà trách Triều đình ta vậy.

4. TÌNH THẾ NƯỚC TÀU. Xưa nay ta vẫn công nhận nước Tàu là thượng quốc và vẫn phải lệ triều cống. Hễ khi nào trong nước có việc biến loạn là vẫn trông mong nước Tàu sang cứu viện. Không ngờ từ thế kỷ thứ XIX trở đi, thế lực các nước bên Âu Tây mạnh lên, người phương Tây đi lược địa rất nhiều, mà tình thế nước Tàu thì rất là suy nhược. Năm Đạo Quang thứ 19 (1839) tức là năm Minh Mệnh thứ 20 bên ta, vì việc cấm thuốc nha phiến ở Quảng Đông thình ra có chiến tranh với nước Anh-cát-lợi. Quân nước Anh đánh phá thành Ninh Ba, Thượng Hải... Vua Đạo Quang phải nhận những điều hoà ước năm Nhâm Dần (1842) làm tại thành Nam Kinh, nhường đảo Hương Cảng cho nước Anh và mở những thành Quảng Châu, Hạ Môn, PHúc Châu, Ninh Ba và Thượng Hải ra cho ngoại quốc vào buôn bán.

Cuộc hoà ước ở Nam KInh định xong, các nước ngoại dương vào buôn bán ở nước Tàu và đặt lĩnh sự ở Quảng Châu, Ninh Ba, Thượng Hải...

Đến năm Hàm Phong thứ 8 (1858) tức là năm Tự Đức thứ 11, nước Anh và nước Pháp ký tờ hoà ước với nước Tàu, đặt sứ thần ở Bắc Kinh. Đoạn nước Tàu có điều trái ước, gây thành việc chiến tranh với hai nước ấy. Quân nước Anh và nước Pháp đánh lấy hải khẩu, rồi kéo lên đánh lấy Bắc Kinh. Vua Hàm Phong lại phải nhận những điều hoà ước năm Canh Thân (1860) làm tại Thiên Tân.

Từ đó nước Tàu cứ bị các nước sách nhiễu mọi điều và bị đè nén nhiều cách. Lúc ấy nước Tàu chẳng khác gì cái nhà lớn đã hẩm nát sắp đổ, mà ta vẫn không tỉnh ngộ, cứ mê mộng là nước ấy còn cường thịnh, có thể giúp ta được trong khi nguy hiểm. Bởi vậy khi quân nước Pháp đã lấy Bắc Kỳ rồi, người mình còn trông cậy ở quân cứu viện của nước Tàu. Phương ngôn ta có câu rằng: “Chết đuối với phải bọt” thật là đúng lắm. Nếu người Tàu có đủ thế lực cứu được ta, thì trước hết họ hãy cứu lấy họ đã. Nhưng lúc bấy giờ từ vua quan cho chí bọn sĩ phu trong nước ta, ai là người hiểu rõ cái tình thế ấy? Cho nên không những là ta không chịu cải cách chính thể của ta cho hợp thời mà lại còn làm những điều ngang ngạnh để cho chóng hỏng việc. Ấy cũng là cái vận nước chẳng may, song những người đương lộ lúc ấy cũng không sao tránh được cái lỗi của mình vậy.

5. SỰ GIAO THIỆP VỚI NƯỚC PHÁP. Từ khi ông Philastre ra điều đình mọi việc ở Bắc Kỳ xong rồi, ông Rheinart ra thay ở Hà Nội, đợi cho đến ngày ký hoà ước thì chiếu mọi khoản mà thi hành. Ông Rheinart ở được mấy tháng, rồi lại về Sài Gòn, giao quyền cho lục quân thiếu tá Dujardin (La Đăng). Thiếu tá có đem binh thuyền giúp quan ta đi đánh giặc ở mạn Hải Dương và Quảng Yên.

Đến khi tờ hoà ước và tờ thương ước đã ký xong thì Triều đình sai ông Nguyễn Tăng Doãn ra Bắc Kỳ để cùng thiếu tá Dujardin chọn đất ở Hà Nội và ở tỉnh Ninh Hải (Hải Phòng) để làm dinh làm trại cho quan quân nước Pháp đóng, và lại sai quan thự thượng thư bộ Hộ là ông Phạm Phú Thứ ra làm Hải An Tổng đốc sung chức Tổng lý thương chánh đại thần, cùng với ông Nguyễn Tăng Doãn và ông Trần Hi Tăng bàn định việc thương chánh ở Bắc Kỳ.

Tháng 6 năm Ất Hợi (1875) chính phủ nước Pháp sai ông Rheinart sang làm khâm sứ ở Huế, ông Truc làm lĩnh sự ở Hải Phòng, và ông Kergaradec (Kê la đích) làm lĩnh sự ở Hà Nội. Triều đình ta sai ông Nguyễn Thành Ý vào làm lĩnh sự ở Sài Gòn.

Ông Rheinart ở Huế đến tháng 10 năm Bính Tí (1876), thì cáo bệnh xin về, Ông Philastre ra thay.

Triều đình lúc bấy giờ cũng đã hiểu rằng hễ không theo tân học thì không tiến hoá được, cho nên mới định cho người đi du học. Năm Mậu Dần (1878) bên Pháp có mở hội vạn quốc đấu xảo ở Paris, vua sai ông Nguyễn Thành ý và ông Nguyễn Tăng Doãn đem đồ đi đấu xảo và cho người sang học ở Toulon.

Nhưng vì năm Tân Tị (1881), Triều đình lại sai quan Lễ bộ thị lang là Phạm Bính sang Hương Cảng đem 12 đứa trẻ con đi học ở trường Anh-cát-lợi, rồi lại sai sứ đi sang Tiêm La và sang Tàu mà không cho sứ thần nước Pháp biết, bởi vậy chính phủ Pháp lấy những điều đó mà trách triều đình ở Huế không theo hoà ước năm Giáp Tuất (1874).

Khi ông Philastre còn ở Huế, vì ông ấy là một người công chính và lại có học chữ nho, cho nên Triều đình ta trọng đãi và có điều gì trang trải cũng còn dễ. Từ năm Kỷ Mão (1879) về sau, ông ấy về Pháp rồi, sự giao thiệp càng ngày càng khó thêm: phần thì vì người mình không biết cách giao thiệp với ngoại quốc, phần thì cái quyền lơi nước ta và nước Pháp lúc bấy giờ tương phản với nhau, cho nên hai bên không có lòng tin cậy nhau, thành ra sự giao thiệp không được thân thiết.

Vả về sau, sự cai trị ở Nam Kỳ đã thành nếp, giặc giã đã yên cả; ở bên Pháp thì thế lực đã mạnh, và đã nhiều người bàn đến việc bên Viễn đông này và việc bảo hộ ở Bắc Kỳ. Lại nhân có những nước I-ta-ly, I-pha-nho, Anh-cát-lợi và Hoa Kỳ muốn sang thông thương với nước Nam, mà có ý muốn không chịu để quan nước Pháp phân xử những việc can thiệp đến người những nước ấy. Bởi vậy nước Pháp muốn lập hẳn cuộc bảo hộ để cho khỏi mọi sự lôi thôi, bèn bỏ lệ đặt quan Hải quân kiêm lĩnh chức thống đốc ở Nam Kỳ, mà sai quan văn sang sung chức ấy để trù tính mọi việc.

Tháng 6 năm Kỷ Mão (1879), viên thống đốc mới là ông Le Myre de Vilers sang nhận chức ở Sài Gòn và ông Rheinart lại sang làm khâm sự ở Huế để thay cho ông Philastre.

Ở Bắc Kỳ thì người Pháp đã ra vào buôn bán, nhưng vì quan ta không biết lo sự khai hoá, việc thông thương không được tiện lợi, và ở mạn thượng du thì quân cờ đen tuy là mượn tiếng theo lệnh quan ta, nhưng kỳ thực chúng nó làm gì cũng không ai ngăn cấm được. Bởi vậy, chính phủ Pháp mới lấy những điều đó mà trách quan ta và sai quan đem quân ra Bắc Kỳ, lấy cớ nói ra mở mang sự buôn bán, kỳ thực là ra kinh doanh việc ở vùng ấy.

-------------------------------

* Chú thích:

[1] Tờ hoà ước năm Giáp Tuất 1874.

(Xem tiếp kỳ sau)


Tin liên quan

noData
Không có dữ liệu

Tin tiêu điểm

noData
Không có dữ liệu