Cận kim thời đại – Nhà Nguyễn. Chương VIII. Giặc giã ở trong nước
(Tiếp theo kỳ trước)
QUYỂN V
CẬN KIM THỜI ĐẠI
NHÀ NGUYỄN
(1802 – 1945)
CHƯƠNG VIII
GIẶC GIÃ Ở TRONG NƯỚC
1. VIỆC RỐI LOẠN TRONG NƯỚC. Vua Dực Tông vốn là ông vua có lòng chăm chỉ về việc trị dân, ngay từ năm Canh Tuất (1850), là năm Tự Đức thứ 3, ngài đã sai ông Nguyễn Tri Phương làm Kinh lược đại sứ Bình Định, Phú Yên , Khánh Hoà và Bình Thuận; ông Nguyễn Đăng Giai làm Kinh lược đại sứ Hà Tĩnh, Nghệ An và Thanh Hoá. Các ông ấy đi khám xét công việc các quan lại và sự làm ăn của dân gian, có điều gì hay dở phải sớ tâu về cho vua biết.
Tuy vậy mặc lòng, không có đời nào lắm giặc giã bằng đời ngài làm vua. Chỉ được vài ba năm đầu thì còn có hơi yên trị, còn từ năm Tân Hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4 trở đi, thì càng ngày càng nhiều giặc hơn cả, bởi vì đất Bắc kỳ là đất của nhà Lê cũ, dân tình cũng có nhiều người tưởng nhớ đến tiền triều, nên cho những người muốn làm loạn, hoặc tự nhận là dòng dõi nhà Lê, hoặc tìm một người nào giả nhận dòng dõi nhà Lê, rồi tôn lên làm minh chủ để lấy cớ mà khởi sự.
Lại nhân lúc bấy giờ bên Tàu có giặc Thái Bình nổi lên đánh nhà Thanh, đến khi giặc ấy tan thì dư đảng chạy tràn sang nước ta cướp phá mạn thượng du. Nào giặc Khách, nào giặc ta, quan quân cứ phải đi đánh dẹp luôn. Ở trong nước thì thỉnh thoảng lại có tai biến, như nước lụt, đê vỡ,... Ở Hưng Yên, đê Văn Giang vỡ 18 năm liền, cả huyện Văn Giang thành ra bãi cát bỏ hoang, dân gian đói khổ, nghề nghiệp không có, cho nên người đi làm giặc càng ngày càng nhiều vậy.
2. GIẶC TAM ĐƯỜNG. Năm Tân Hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4, có giặc Khách là bọn Quảng Nghĩa Đường, Lục Thắng Đường, Đức Thắng Đường... tục gọi là giặc Tam Đường, quấy nhiễu ở mặt Thái Nguyên, vua sai ông Nguyễn Đăng Giai ra kinh lược Bắc kỳ. Ông ấy dùng cách khôn khéo dụ được chúng nó về hàng. Bởi vậy trong hạt lại được yên một độ. Nhưng đến cuối năm Giáp Dần (1854) là năm Tự Đức thứ 7, Nguyễn Đăng Giai mất, đất Bắc kỳ lại có loạn.
3. GIẶC CHÂU CHẤU. Năm Tự Đức thứ 7 (1854), ở tỉnh Sơn Tây có một bọn người đem Lê Duy Cự là dòng dõi nhà Lê ra lập lên làm minh chủ để khởi sự đánh nhà Nguyễn. Lúc ấy có Cao Bá Quát, người làng Phú Thuỵ, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, thi đỗ cử nhân, ra làm quan, được bổ chức giáo thụ phủ Quốc Oai (Sơn Tây). Cao Bá Quát có tiếng là người văn học giỏi ở Bắc Kỳ, mà cứ bị quan trên đè nén, cho nên bức chí, bỏ quan về đi dạy học, rồi theo bọn ấy xưng là quốc sư để dấy loạn ở vùng Sơn Tây là Lê Thuận đi đánh bắt được Cao Bá Quát đem về chém tại làng.
Nhân vì mùa tháng năm ấy ở vùng tỉnh Bắc Ninh và Sơn Tây có nhiều châu chấu ra phá hại mất cả mùa màng, rồi đến cuối năm lại có giặc ấy, cho nên người thời bấy giờ gọi là giặc châu chấu.
Cao Bá Quát chết rồi, Lê Duy Cự còn quấy rối đến mấy năm sau mới dẹp yên được. Từ đó trở đi, không năm nào là năm không có giặc, nhưng kiệt hiệt hơn cả là có giặc tên Phụng và giặc Khách ở mạn Thượng du.
4. GIẶC TÊN PHỤNG. Năm Tân Dậu (1861), quân nước Pháp và nước I-pha-nho sang đánh Quảng Nam, có mấy người ở Bắc kỳ theo vào làm lính mộ. Trong ấy có tên Tạ Văn Phụng trước đã theo giáo sĩ ra ngoại quốc đi học đạo, sau lại theo Trung tướng Charner về đánh Quảng Nam.
Đến tháng chạp, thì tên Phụng ra Bắc kỳ, tự xưng là Lê Duy Minh dòng dõi nhà Lê, rồi tự xưng làm minh chủ, cùng với một người đạo trưởng tên là Trường làm mưu chủ, và tên Ước, tên Độ dấy binh ở Quảng Yên. Đảng tên Phụng đem quân giặc Khách ở ngoài bể vào đánh lấy phủ Hải Ninh, rồi lại thông với giặc Khách và giặc ta ở các tỉnh, để làm loạn ở Bắc kỳ.
Tháng ba năm Nhâm Tuất (1862), ở Bắc Ninh có tên cai tổng Nguyễn Văn Thịnh (tục gọi là cai tổng Vàng) xưng làm nguyên suý, lập tên Uẩn mạo xưng là con cháu nhà Lê, lên làm minh chủ, rồi nhập đảng với tên Phụng, đem binh đi đánh phủ Lạng Giang, huyện Yên Dũng, và vây thành Bắc Ninh.
Bấy giờ quan bố chính tỉnh Hà Nội là Nguyễn Khắc Thuật, quan bố chính tỉnh Sơn Tây là Lê Dụ và quan phó lĩnh binh tỉnh Hưng Yên là Vũ Tảo đem quân ba tỉnh về đánh giải vây cho tỉnh Bắc. Vũ Tảo đánh nhau với quân giặc hơn 10 trận mới phá được quân giặc.
Ở phía đông thì tên Phụng vây đánh thành Hải Dương, tỉnh thần dâng sớ cáo cấp. Triều đình bèn sai quan Thượng thư bộ Hình là Trương Quốc Dụng ra làm Tổng đốc Hải An (Hải Dương và Quảng An) quân vụ, cùng với Phan Tam Tỉnh, Đặng Hạnh, Lê Xuân, đem quân Kinh và quân Thanh, Nghệ ra tiến tiễu. Lại sai Đào Trí làm tham tán đại thần, Nguyễn Bá Nghi làm Sơn Hưng Tuyên (Sơn Tây Hưng Hoá và Tuyên Quang) Tổng đốc, để cùng với Trương Quốc Dụng đánh giặc ở Bắc kỳ.
Lúc ấy, tỉnh Thái Nguyên thì có giặc Nông và giặc Khách đánh phá, tỉnh Tuyên Quang thì có bọn tên Uẩn, tên Nông Hùng Thạc quấy nhiễu, tỉnh Cao Bằng thì có tên giặc Khách Lý Hợp Thắng vây đánh, tỉnh Bắc Ninh thì có cai tổng Vàng cướp phá, các quan lo rối cả lên. Vua Dực tông lại sai Nguyễn Tri Phương ra làm Tây bắc tổng thống quân vụ đại thần, cùng với Phan Đình Tuyển và Tôn Thất Tuệ ra đánh mặt Bắc Ninh, Thái Nguyên và Tuyên Quang.
Tháng 3 năm Quí Hợi (1863) Vũ Tảo đánh lấy lại thành Tuyên Quang và bắt được tên Uẩn đóng cũi giải về trị tội. Qua tháng 4, Nguyễn Tri Phương dẹp xong giặc ở Bắc Ninh, rồi đem binh lên lấy lại thành Thái Nguyên, bắt được tên Thanh tên Đắc, tên Vân và lại phá được sào huyệt của giặc ở núi Ma Hiên, thuộc châu Bạch Thông.
Còn ở mặt Hải Dương và Quảng Yên, thì tuy Trương Quốc Dụng và Đào Trí đã giải được vây cho thành Hải Dương, nhưng thế quân giặc ở mặt bể còn mạnh lắm. Vua Dực tông lại sai Nguyễn Tri Phương làm tổng thống Hải An quân vụ, Trương Quốc Dụng làm Hiệp thống đem quân ra đánh mặt ấy.
Lúc bấy giờ bọn tên Dung có sai người vào cầu viện quan Thiếu tướng Bonard ở trong Nam kỳ, ước hễ lấy được Bắc kỳ thì xin để nước Pháp bảo hộ. Nhưng vì trong Nam kỳ còn lắm việc, mà sự giảng hoà với triều đình ở Huế đã sắp xong, cho nên Thiếu tướng không nhận. Đảng tên Phụng vẫn chiếm giữ đất Quảng Yên và những dải ở ngoài bể, để làm sào huyệt, rồi cho binh thuyền đi cướp phá các nơi. Quan quân đi đánh, nhiều người bị hại.
Cuối năm Quí Hợi (1863) là năm Tự Đức thứ 16, quân giặc họp hơn 500 chiếc thuyền ở đảo Cát Bà và ở núi Đồ Sơn, có ý muốn đem quân vào đánh đất Kinh kỳ, nhưng chẳng may phải bão, thuyền đắm mất nhiều. Quan Đề đốc là Lê Quang Tiến và quan bộ phủ Bùi Huy Phan được tin ấy liền đem quân ra đánh, bị quân giặc đánh tập hậu, quan quân bỏ chạy. Lê Quang Tiến và Bùi Huy Phan phải nhảy xuống bể tự tận.
Đến tháng 6 năm Giáp Tí (1864) là năm Tự Đức thứ 17, quan Hiệp thống Trương Quốc Dụng, quan Tán lý Văn Đức Khuê, quan Tán tương Trần Huy Sách và quan chưởng vệ Hồ Thiện đánh nhau với giặc ở đất Quảng Yên, bị giặc giết cả. Trận ấy quan quân thua to, quân sĩ thiệt hại rất nhiều.
Tháng 4 năm Ất Sửu (1865), quân giặc đem 300 chiếc thuyền phân ra làm 3 đạo vào cướp ở mạn Hải Dương. Nguyễn Tri Phương sai Nguyễn Văn Vĩ đem quân ra đón đánh, bắt và chém được rất nhiều. Từ đó quan Đề đốc Mai Thiện quan Tán lý Đặng Trần Chuyên, quan Đốc binh Ông Ích Khiêm phá được quân giặc hơn 10 trận. Quân giặc lui về giữ mặt Hải Ninh.
Tháng 7 năm ấy, Nguyễn Tri Phương sai Đặng Trần Chuyên, Ông Ích Khiêm đem binh ra Quảng Yên, ước với quan nhà Thanh ở Khâm Châu để đánh lấy lại thành Hải Ninh. Quân giặc thua to, đem hơn 70 chiếc thuyền chạy ra bể. Quan quân đem binh thuyền ra đuổi đánh, tên Phụng, tên Ước thì chạy vào mạn Quảng Bình, Quảng Trị, còn những đồ đảng, đức thì phải bắt, đứa thì chạy trốn được. Sau tên Phụng và tên Ước cũng bị bắt đem về trị tội ở Huế.
Giặc Phụng khởi từ cuối năm Tân Dậu (1861) đến cuối năm Ất Sửu (1865) mới dẹp xong, kể vừa 4 năm trời, nhà nước tổn hại rất nhiều. Khi giặc Phụng ở Quảng Yên dẹp gần xong, thì ở mạn Cao Bằng đã có giặc Khách đánh lấy tỉnh thành. Quan Kinh lược Võ Trọng Bình và quan tuần phủ Phạm Chi Hương đem binh lên Lạng Sơn rồi chia quân đi đánh các nơi, từ tháng 9 năm Ất Sửu (1865) cho đến tháng 3 năm Bính Dần (1866), thì tướng giặc là Trương Cận Bang mới xin về hàng, và mới thu phục lại được thành Cao Bằng.
Nguyễn Tri Phương và Võ Trọng Bình về Kinh coi việc triều chính.
5. SỰ PHẢN NGHỊCH Ở KINH THÀNH. Việc ngoài Bắc mới hơi nguôi nguôi, thì kinh đô lại có việc làm cho náo động lòng người.
Nguyên vua Dực tông là con thứ mà được nối ngôi, là vì người anh ngài là Hồng Bảo phóng đãng, không chịu học hành cho nên không được lập. Ông ấy lấy đố làm tức giận, bèn đồ mưu với một nước ngoại quốc để tranh ngôi vua. Chẳng may sự lộ ra, ông ấy phải bỏ ngục, rồi uống thuốc độc mà chết. Còn con ông ấy thì lại được tha mà phải đổi tên là Đinh Đạo.
Đến năm Bính Dần (1866) là năm Tự Đức thứ 19, nhà vua đang xây Vạn Niên Cơ tức là Khiêm lăng bây giờ, quấn sĩ phải làm lụng khổ sở, có nhiều người oán giận. Bấy giờ ở Kinh có Đoàn Trưng cùng với em là Đoàn Hữu Ái, Đoàn Tư trực, và bọn Trương Trọng Hoà, Phạm Lương, kết làm “Sơn đông thi tửu hội” để mưu việc lập Đinh Đạo lên làm vua. Bọn tên Trưng mới chiêu dụ những lính làm ở Vạn Niên Cơ và cùng với quan Hữu quân Tôn Thất Cúc làm nội ứng, định ngày khởi sự.
Đến đêm hôm mồng 8 tháng 8, bọn tên Trưng đem quân vào cửu Tả dịch, chực xông vào điện giết vua Dực tông. May nhờ có quan chưởng vệ là Hồ Oai đóng được cửa điện lại, hô quân bắt được tên Trưng, tên Trực và cả bọn đồng đảng.
Đinh Đạo phải tội giảo, Tôn Thất Cúc thì tự vẫn chết, còn các quan có trách nhiệm đều phải chiếu tội nặng nhẹ, hoặc phải giáng hoặc phải cách.
Lúc ấy ngoài thì có giặc cướp đánh phá, trong thì có nghịch thần làm loạn. Ở mặt Quảng Nghĩa lại có giặc mọi Đá Vách cứ hay xuống quấy nhiễu dân gian, may nhờ có quan Tiễu phủ Nguyễn Tấn ra sức đánh dẹp mới yên được. Việc giao thiệp với nước Pháp thì ngày càng khó. Ở Bắc kỳ thì có giặc Khách một ngày một mạnh, đến nỗi quan quân đánh không được, phải nhờ quân Tàu sang dẹp hộ. Triều đình cũng bối rối không biết tính ra thế nào cho khỏi được sự biến loạn.
6. GIẶC KHÁCH Ở BẮC KỲ. Ở bên Tàu lúc bấy giờ cũng loạn: ngoài thì đánh nhau với nước Anh-cát-lợi và nước Phát-lan-tây. Triều đình phải bỏ kinh đô mà chạy; trong thì có giặc Thái Bình nổi lên đánh phá, tí nữa ngôi vua nhà Thanh cũng đổ nát.
Nguyên từ năm Đạo Quang thứ 29, là năm Kỳ Dậu (1849), tức là bên ta năm Tự Đức thứ 2, ở Quảng Tây có tên Hồng Tú Toàn cùng với bọn Dương Tú Thanh, Tiêu Triều Quí, Lý Tú Thành, nổi lên xưng là Thái Bình thiên quốc, rồi chiếm giữ đất Kim Lăng và các tỉnh ở phía nam sông Trường Giang. May nhờ có bọn Tăng Quốc Phiên, Tả Tông Đường, Lý Hồng Chương, hết sức đánh dẹp, và lại có thế ngoại quốc tư giúp, cho đến năm Đồng Trị thứ hai là năm Quí Hợi (1863) tức là bên ta năm Tự Đức thứ 16, quan nhà Thanh mới bắt được các tướng Thái Bình, Hồng Tú Toàn phải uống thuốc độc tự tử, triều đình nhà Thanh lại thu phục được các tỉnh ở phía Nam nước Tàu.
Lúc ấy có dư đảng của Hồng Tú Toàn là bọn Ngô Côn chạy tràn sang nước ta, trước còn nói xin hàng, rồi sau đem quân đi cướp phá các tỉnh, quan quân đánh mãi không được.
Năm Mậu Thìn (1868) là năm Tự Đức thứ 21, Ngô Côn chiếm giữ tỉnh thành Cao Bằng. Triều đình sai quan Tổng đốc Phạm Chi Hương viết thư sang cho quan nhà Thanh để xin quân Tàu sang tiễu trừ. Nhà Thanh sai phó tướng Tạ Kế Quí đem quân sang cùng với quan Tiễu phủ Ông Ích Khiêm và quan Đề đốc Nguyễn Viết Thành, đánh phá quân của Ngô Côn ở Thất Khê. Nhưng đến tháng 7 năm ấy, quân ta đánh thua ở Lạng Sơn, quan Tham tán Nguyễn Lệ, quan Phó Đề đốc Nguyễn Viết Thành tử trận, quan Thống đốc Phạm Chí Hương bị bắt.
Triều đình sai Võ Trọng Bình ra làm Hà Ninh Tổng đốc kiêm chức Tuyên Thái Lạng quân thứ khâm sai đại thần, để hội với quan Đề đốc tỉnh Quảng Tây là Phùng Tử Tài mà đánh giặc Ngô Côn.
Quân hai nước cùng đồng sức đánh dẹp, đến tháng 5 năm Kỷ Tị (1869) thì mới khôi phục lại được tỉnh thành Cao Bằng. Đến cuối năm Canh Ngọ (1870), Ngô Côn đem quân vây đánh tỉnh thành Bắc Ninh, quan Tiễu phủ Ông Ích Khiêm đánh một trận bắn chết Ngô Côn và phá tan quân giặc.
Ngô Côn tuy chết, song còn có những đồ đảng là Hoàng Sùng Anh, hiệu cờ vàng, Lưu Vĩnh Phúc hiệu cờ đen, Bàn Văn Nhị, Lương Văn Lợi hiệu cờ trắng, vẫn cứ quấy nhiễu ở mạn Tuyên Quang, Thái Nguyên, quan quân phải hết sức chống giữ thật là vất vả. Triều đình sai quan Trung quân Đoàn Thọ ra làm Tổng thống quân vụ ở Bắc kỳ.
Đoàn Thọ vừa mới ra, kéo quân lên đóng ở tỉnh thành Lạng Sơn, bọn giặc Khách là Tô Tứ nổi lên, nửa đêm vào lấy thành, bắt ông ấy giết đi, còn Võ Trọng Bình thì vượt thành chạy thoát được.
Tin ấy vào đến Huế, Triều đình vội vàng sai Hoàng Kế Viêm (có sách chép là Hoàng ta Viêm) ra làm Lạng Bình Ninh Thái thốn đốc quân vụ đại thần, cùng với quan Tán tương Tôn Thất Thuyết đi dẹp giặc ở Bắc kỳ. Qua tháng tư năm sau (1871), nhà vua lại sai quan Hình bộ thượng thư là Lê Tuấn làm chức Khâm sai thị sự để cùng với ông Hoàng Kế Viêm lo việc đánh dẹp.
Tháng 11 năm Tân Mùi (1871), ở Quảng Yên lại có tên Hoàng Tề nổi lên, thông với giặc Tô Tứ và giặc Tàu ô ở ngoài bể, rồi đem binh thuyền đi cướp phá các nơi. Hoàng Kế Viêm giữ mạn Sơn Tây, Lê Tuấn ra cùng với tỉnh thần Hải Dương đem quân đi đánh giặc Tề. Được ít lâu, quân thứ tỉnh Hải Dương bắn chết tên Tề ở huyện Thanh Lâm, dư đảng giặc ấy đều tan cả.
Ở mạn thượng du thì đảng cờ đen là bọn Lưu Vĩnh Phúc và đảng cờ vàng là bọn Hoàng Sùng Anh quấy nhiễu ở đất Tuyên Quang. Bao nhiêu thuế má ở mạn ấy, chúng thu cả, sau hai đảng ấy lại thù khích nhau, đánh phá nhau thật là tàn hại. Đảng cờ đen về hàng với quan ta, nhà vua bèn dùng Lưu Vĩnh Phúc cho ở đất Lao Khay, được thu cả quyền lợi ở chỗ ấy, để chống giữ với đảng cờ vàng, đóng ở mạn Hà Giang.
Đất Bắc kỳ cứ giặc giã mãi, quan quân đánh dẹp thật là tổn hại mà không yên được. Đến tháng 7 năm Nhâm Thân (1872), Triều đình lại sai Nguyễn Tri Phương làm tuyên sát đổng sức đại thần thay mặt vua xem xét việc đánh giặc ở Bắc kỳ. Nhưng lúc bấy giờ việc giặc ở trong nước chưa xong, thì sự giao thiệp với nước Pháp đã sinh ra lắm nỗi khó khăn, khiến việc nước lại tối thêm ra nữa.
(Xem tiếp kỳ sau)