A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Cận kim thời đại – Nhà Nguyễn. Chương VII. Nước Pháp lấy đất Nam Kỳ (phần 2)

(Tiếp theo kỳ trước)

QUYỂN V
CẬN KIM THỜI ĐẠI

NHÀ NGUYỄN
(1802 – 1945)

CHƯƠNG VII
NƯỚC PHÁP LẤY ĐẤT NAM KỲ

2. QUÂN PHÁP VÀO ĐÁNH GIA ĐỊNH. Trước đã có người bàn với Trung tướng Rigault de Genouilly ra đánh Bắc kỳ, nói rằng ở Bắc kỳ có hơn 40 vạn người đi đạo, và lại có đảng theo nhà Lê, có thể giúp cho quân Pháp được thành công. Trung tướng cho đi do thám biết rằng đất Nam kỳ dễ lấy hơn, và lại có đất giàu có, nhiều thóc gạo. Đến tháng giêng năm Kỷ Mùi (1859) là năm Tự Đức thứ 12, Trung tướng giao quyền lại cho đại tá Toyon ở lại giữ các đồn Đà Nẵng, rồi còn bao nhiêu binh thuyền đem vào Nam kỳ. Quân Pháp vào cửa Cần Giờ, bắn phá các pháo đài ở hai bên bờ sông Đồng Nai, rồi tiến lên đánh thành Gia Định.

Ở Gia Định, bấy giờ tuy có nhiều binh khí, nhưng quân lính không luyện tập, việc võ bị bỏ trễ nải, cho nên khi quân Pháp ở cửa Cần Giờ tiến lên, quan Hộ đốc là Vũ Duy Ninh vội vàng tư đi các tỉnh lấy binh về cứu viện; nhưng chỉ trong hai ngày thì thành vỡ. Vũ Duy Ninh tự tận. Quân nước Pháp và nước I-pha-nho vào thành, lấy được 200 khẩu súng đại bác, 8 vạn rưỡi kilô thuốc súng và độ chừng 18 vạn phật lăng (francs) cả tiền lẫn bạc, còn các binh khí và thóc gạo thì không biết bao nhiêu mà kể.

Trung tướng Rigault de Genouilly lấy được thành Gia Định rồi, đốt cả thóc gạo và san phẳng thành trì làm bình địa, chỉ để một cái đồn ở phía nam, sai thuỷ quân trung tá Jauréguiberry đem một đạo quân ở lại chống giữ với quân của ông Tôn Thất Hợp đóng ở Biên Hoà.

Trung tướng lại đem quân trở ra Đà Nẵng, rồi tiến lên đánh một trận ở đồn Phúc Ninh. Quân ông Nguyễn Tri Phương thua phải lui về giữ đồn Nại Hiên và đồn Liên Trì.

Trung tướng muốn nhân dịp đó mà định việc giảng hoà, nhưng mà Triều đình cứ để lôi thôi mãi, người thì bàn hoà, kẻ thì bàn đánh, thành ra không xong việc gì cả [1]. Mà quân Pháp lúc bấy giờ ở Đà Nẵng khổ sở lắm, nhiều người có bệnh tật, Trung tướng Rigault de Genouilly cũng đau, phải xin về nghỉ.

Chính phủ Pháp sai Hải quân Thiếu tướng Page (Ba-du) sang thay cho Trung tướng Rigault de Genouilly và nhân thể để chủ việc giải hoà cho xong. Đến tháng 10 năm Kỷ Mùi (1859) thì Thiếu tướng sang đến nơi, và cho người đưa thư bàn việc hoà, chỉ cốt xin đừng cấm đạo, để cho các giáo sĩ được tự do giảng dạo, đặt lĩnh sự coi việc buôn bán ở các cửa bể và đặt sứ thần ở Huế. Đại để thì cũng như những điều của ông Montigny đã bàn năm trước. Nhưng chẳng may lúc bấy giờ ở trong Triều không ai hiểu chính sách ngoại giao mà chủ trương việc ấy, hoá ra làm mất cái dịp hay cả cho hai nước.

Thiếu tướng thấy cuộc hoà không xong bèn tiến binh lên đánh, trận ấy bên quân Pháp chết mất một viên lục quân trung tá là Dupré Déroulède.

Khi quân Pháp và quân I-pha-nho sang đánh nước ta ở Đà Nẵng và ở Gia Định, thì quân nước Anh và quân nước Pháp đang đánh nước Tàu ở mạn Hoàng Hải. Đến bấy giờ quân Pháp cần phải tiếp sang bên Tàu, chính phủ nước Pháp mới truyền cho Thiếu tướng Page phải rút quân ở Đà Nẵng về, và chỉ để quân giữ lấy Gia Định, còn bao nhiêu binh thuyền phải đem sang theo Hải quân Trung tướng Charner đi đánh Tàu. Bởi vậy đến tháng ba năm Canh Thân (1860) quân Pháp đốt cả dinh trại ở Trà Sơn rồi xuống tàu. Về đến Gia Định, Thiếu tướng Page để Hải quân đại tá d’Ariès ở lại giữ Gia Định, còn bao nhiêu binh thuyền đem lên phía bắc hội với binh thuyền của nước Anh để đánh nước Tàu.

Triều đình ở Huế thấy quân Pháp bỏ Đà Nẵng đi, bèn sai Nguyễn Tri Phương, Phạm Thế Hiển vào Nam kỳ, để cùng với ông Tôn Thất Hợp sung Gia Định quân thứ.

Đến tháng 7 năm Canh Thân (1860) ông Nguyễn Tri Phương khởi hành . Lúc gần đi, ông ấy có tâu bày mấy lẽ về việc giữ nước và nói rằng việc đánh nhau với nước Pháp bây giờ khó gấp năm gấp bảy lúc trước, nhưng ông ấy xin cố hết sức để đền ơn nước, còn ở mặt Quảng Nam mà có việc gì, thì ông Phan Thanh Giản và ông Nguyễn Bá Nghi có thể cáng đáng được.

Quân Pháp và quân I-pha-nho ở Sài Gòn lúc bấy giờ chỉ có độ 1.000 người mà quân của Việt Nam ta thì có đến hơn một vạn người. Nhưng mà quân ta đã không luyện tập, lại không có súng ống như quân Tây. Mình chỉ có mấy khẩu súng cổ, bắn bằng đá lửa, đi xa độ 250 hay là 300 thước tây là cùng; còn súng đại bác thì toàn là súng nạp tiền mà bắn mười phát không đậu một. Lấy những quân lính ấy, những khí giới ấy mà đối địch với quân đã tập theo lối mới, bắn bằng súng nạp hậu và bằng đạn trái phá, thì đánh làm sao được. Bởi vậy cho nên xem trận đồ của Việt Nam ta từ đầu cho đến cuối, chỉ có cách đào hầm đào hố để làm thế thủ chứ không bao giờ có thế công, mà người Tây thì lợi cả công lẫn thủ. Tuy vậy, ông Nguyễn Tri Phương cùng với quan Tham tán đại thần Phạm Thế Hiển vào xếp đặt ở Gia Định một cách rất có qui củ, đắp dãy đồn Kỳ Hoà (người Pháp gọi là dãy đồn Chí Hoà) cũng hợp qui thức, để chống nhau với quân của đại tá d’Ariès. Hai bên đã từng đánh nhau hai ba trận, đều bị thiệt hại cả.

Đến tháng 9 năm Canh Thân (1860), thì nhà Thanh bên Tàu ký hoà ước với nước Anh và nước Pháp, hai bên bãi sự chiến tranh. Chính phủ nước Pháp sai Hải quân Trung tướng Charner đem binh thuyền về chủ trương việc lấy Nam kỳ.

Tháng Giêng năm Tân Dậu (1861), Trung tướng Charner đem cả thảy 70 chiếc tàu và 3.500 quân bộ về đến Gia Định [2].

Được 20 ngày thì trung tướng truyền lệnh tiến quân lên đánh lấy đồn Kỳ Hoà. Hai bên đánh nhau rất dữ trong hai ngày. Quân Pháp chết hơn 300 người, nhưng mà súng Tây bắn hăng quá, quân ta địch không nổi, phải thua bỏ đồn chạy về Biên Hoà.

Trận ấy bên Tây thì có lục quân Thiếu tướng Vassoigne, đại tá I-pha-nho Palanca và mấy người nữa bị thương, mà bên ta thì ông Nguyễn Tri Phương bị thương, em ngài là Nguyễn Duy tử trận, quan Tham tán là Phạm Thế Hiển về đến Biên Hoà được mấy hôm cũng mất, còn quân sĩ thì chết hại rất nhiều.

3. MẤT TỈNH ĐỊNH TƯỜNG. Phá được đồn Kỳ Hoà rồi, Trung tướng Charner truyền cho quân thuỷ bộ tiến lên đánh đuổi, quan quân vỡ tan cả. Tày thuỷ của Pháp lên lấy Thủ Dầu Một và Tây Ninh. Trung tướng lại sai người đưa thư sang cho vua Cao Miên là Norodom (Nặc Ông Lân), đại lược nói rằng: chủ ý của Pháp định lấy đất Gia Định làm thuộc địa, và nay mai sẽ đánh lấy Mỹ Tho (Định Tường) để cho tiện đường lưu thông với nước Cao Miên.

Bấy giờ bại quân của Nguyễn Tri Phương rút về đóng ở Biên Hoà, còn đang rối loạn, chưa dám làm gì, quân Pháp bèn quay về phía tây đánh tỉnh Định Tường. Trước Trung tướng đã cho tàu đi dò các ngọn sông xem đi đường nào tiện, đến cuối tháng 2 năm Tân Dậu (1861), một mặt Trung tướng sai Trung tá Bourdais đem tàu đi đường sông, tiến lên đánh các đồn, một mặt thì sai Thiếu tướng Page đi đường bể, theo cửa sông Mê Kông vào, hai mặt cùng tiến lên đánh lấy thành Mỹ Tho. Quan Hộ đốc là Nguyễn Công Nhàn phải bỏ thành chạy.

Từ khi hạ thành Mỹ Tho rồi, Trung tướng đặt đồn luỹ ở các nơi hiểm yếu, và có ý hoãn việc binh để sửa sang việc cai trị trong địa hạt đã lấy được, cho nên cũng không đánh các tỉnh khác.

Triều đình ở Huế được tin quan quân thất thủ đại đồn Kỳ Hoà, và thành Mỹ Tho cũng thất thủ rồi, sai quan thượng thư Hộ bộ là Nguyễn Bá Nghi làm Khâm sai đại thần vào kinh lý việc Nam kỳ. Nguyễn Bá Nghi biết thế không chống nổi với quân Pháp, dâng sớ về xin giảng hoà. Nhưng ở trong triều bấy giờ có bọn Trương Đăng Quế không chịu, bắt phải tìm kế chống giữ.

Có nhà chép sử trách Nguyễn Bá Nghi rằng tuy ông ấy muốn giảng hoà, nhưng không chịu nhường đất, cứ lấy lý mà cãi, chứ không biết rằng thời buổi cạnh tranh này, hễ cái sức đã không đủ, thì không có cái lý gì là phải cả. Vả chăng quân nước Pháp đã sang đánh lấy mất mấy tỉnh ở Nam kỳ, là cốt để làm thuộc địa, lẽ nào tự nhiên lại đem trả lại. Bởi vậy sự giảng hoà cứ lôi thôi mãi không xong. Mà ở trong địa hạt tỉnh Gia Định và tỉnh Định Tường lúc ấy lại có mấy nguời như tri huyện Toại, phó quản cơ Trương Định, thiên hộ Dương rủ những người nghĩa dũng nổi lên đánh phá quân Pháp. Quân Pháp cứ đánh dẹp mãi dân tỉnh cũng bị lắm điều cực khổ.

Đến tháng 10 năm Tân Dậu (1861), chính phủ Pháp sai Hải quân Thiếu tướng Bonard sang thay cho Trung tướng Charner về nghỉ.

-----------------------------------

* Chú thích:

[1] Chỗ này sách Tây có quyển chép rằng khi hai bên đang bàn việc hoà thì vua Tự Đức sai ông Nguyễn Tri Phương đánh quân Pháp ở Gia Định. Vả xem sử ta lúc bấy giờ thì ông Nguyễn Tri Phương đang còn ở Quảng Nam mãi đến tháng 5 năm Canh Thân (1860), ông ấy mới vào Nam kỳ. Vậy việc đánh ở Gia Định là ông Tôn Thất Hợp, chứ không phải là ông Nguyễn Tri Phương.

[2] Sử ta chép rằng quân Pháp lúc bấy giờ có hơn 1 vạn người, mà các sách chép việc lấy Nam kỳ thì chỉ nói có 3.500 người thôi và trong số ấy lại có mấy đội lính mộ An Nam nữa. Thiết tưởng số 3.500 có lẽ thật hơn.

(Xem tiếp kỳ sau)


Tin liên quan

noData
Không có dữ liệu

Tin tiêu điểm

noData
Không có dữ liệu