A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Cận kim thời đại – Nhà Nguyễn. Chương IX. Quân nước Pháp lấy Bắc Kỳ (phần 2)

QUYỂN V CẬN KIM THỜI ĐẠI NHÀ NGUYỄN (1802 – 1945) CHƯƠNG IX QUÂN NƯỚC PHÁP LẤY BẮC KỲ

(Tiếp theo kỳ trước)

4. HẠ THÀNH HÀ NỘI NĂM QUÍ DẬU (1873). Quan ta thấy đại uý không nói gì đến việc Đồ Phổ Nghĩa, mà lại nói những việc dẹp giặc và mở sự buôn bán, thì đều lấy làm phân vân. Sau lại thấy tàu và quân ở Sài Gòn tiếp ra, quan ta lại càng lo lắm. Được mấy hôm, đại uý không bàn hỏi gì đến quan ta, tự tiện làm tờ tuyên bố sợ mở sông Hồng Hà cho người nước Pháp, nước I-pha-nho và nước Tàu được ra vào buôn bán.

Quan ta lúc bấy giờ cũng bối rối quá. Việc giao thiệp và việc buôn bán với nước Pháp thì đã định rõ trong tờ hoà ước năm Nhâm Tuất (1862), nay thấy đại uý Francis Garnier đường đột làm như thế, thì cũng lấy làm lo, cho nên cũng có tìm cách phòng bị. Mà đại uý cũng đã biết trước rằng thế nào quan ta cũng không chịu, cho nên đã định kế đánh thành Hà Nội.

Đến đầu tháng 10, một mặt đại uý viết thư cho ông Nguyễn Tri Phương, trách quan ta làm ngăn trở việc buôn bán của Đồ Phổ Nghĩa; vậy vì sự văn minh và vì quyền lợi của nước Pháp, cho nên suý phủ ở Sài Gòn sai đại uý ra mở sự buôn bán ở Bắc kỳ. Dẫu quan Việt Nam có thuận hay không cũng mặc, đại uý cứ theo lệnh quan suý phủ mà thi hành. Một mặt đại uý bàn định với Đồ Phổ Nghĩa định ngày đánh thành và bắt ông Nguyễn Tri Phương giải vào Sài Gòn.

Cứ như sách của Đồ Phổ Nghĩa, thì lúc bấy giờ có cả những người mạo xưng là đảng nhà Lê, cũng xin theo đại uý để vào thành làm nội ứng.

Đến sáng hôm rằm tháng 10 năm Quí Dậu (1873), thì quân Pháp phát súng bắn vào thành Hà Nội. Ông Nguyễn Tri Phương cùng với con là phò mã Nguyễn Lâm hoảng hốt lên thành giữ cửa Đông và cửa Nam. Được non một giờ đồng hồ thì thành vỡ, phò mã Lâm trúng đạn chết, ông Nguyễn Tri Phương thì bị thương nặng. Quân Pháp vào thành bắt được ông Nguyễn Tri Phương và quan khâm phái Phan Đình Bình đem xuống tàu.

Ông Nguyễn Tri Phương nghĩ mình là một bậc lão thần thờ vua đã trải ba triều, đánh nam dẹp bắc đã qua mấy phen, nay chẳng may vì việc nước mà bị thương, đến nỗi phải bắt, ông quyết chí không chịu buộc thuốc và nhịn ăn mà chết.

Ông Nguyễn Tri Phương là người ở Thừa Thiên, do lại điển xuất thân, làm quan từ đời vua Thánh Tổ, trải qua ba triều, mà nhà vẫn thanh bạch, chỉ đem chí lự mà lo việc nước, chứ không thiết của cải. Nhưng chẳng may phải khi quốc bộ gian nan, ông phải đem thân hiến cho nước, thành ra cả nhà cha con, anh em đều mất vì việc nước. Thật là một nhà trung liệt xưa nay ít có vậy.

5. LẤY MẤT TỈNH Ở TRUNG CHÂU. Thành Hà Nội thất thủ rồi, quan ta thì trốn tránh đi cả, giặc cướp lại nhân dịp nổi lên. Đại uý Francis Garnoier lại cho những người theo với mình đi làm quan các nơi để chống với quan triều, rồi lại sai người đi đánh lấy tỉnh Ninh Bình, Nam Định và Hải Dương.

Quan ta ở các tỉnh đều ngơ ngác không biết ra thế nào, hễ thấy người Tây đến là bỏ chạy. Bởi vậy, chỉ có người Pháp tên là Hautefeuille và 7 người lính tây mà hạ được thành Ninh Bình, và chỉ trong 20 ngày mà 4 tỉnh ở Trung châu mất cả.

6. ĐẠI UÝ FRANCIS GARNIER CHẾT. Triều đình được tin biến ở Bắc Kỳ, vội vàng sai ông Trần Đình Túc, ông Nguyễn Trọng Hợp, ông Trương Gia Hội cùng với giám mục Bình (Mgr Bohier) và linh mục Đăng (Dangelzer) ra Hà Nội, để điều đình mọi việc và sai ông Hoàng Kế Viêm ở Sơn Tây làm tiết chế quân vụ, để phòng giữ các nơi. Lại sai ông Lê Tuấn làm toàn quyền, ông Nguyễn Văn Tường làm phó, vào thương thuyết với suý phủ ở Sài Gòn về việc đại uý Francis Garnier đánh Bắc Kỳ.

Lúc bấy giờ ông Hoàng Kế Viêm đóng ở Sơn Tây, có đảng cờ đen là bọn Lưu Vĩnh Phúc về giúp. Vua phong cho Lưu Vĩnh Phúc làm Đề đốc, để cùng với quan quân chống giữ quân Pháp. Lưu Vĩnh Phúc đem quân về đóng ở mạn phủ Hoài Đức. Khi ông Trần Đình Túc và ông Nguyễn Trọng Hợp đang thương thuyết với đại uý Francis Garnier, thì quân cờ đen về đánh Hà Nội. Đại uý đem quân đi đuổi đánh, lên đến Cầu Giấy thì bị phục quân giết chết.

7. ÔNG PHILASTRE RA HÀ NỘI. Nguyên khi Thiếu tướng Dupré sai đại uý Francis Garnier ra Bắc kỳ là tự ý mình chứ chính phủ nước Pháp vẫn không thuận, bởi vậy khi được tin đại uý đã khởi sự đánh Hà Nội, Thiếu tướng liền sai Hải quân đại uý, kiêm chức thống soái việc hình luật ở Nam kỳ, là ông Philastre (ta gọi là Hoắc đoạ sinh) cùng với quan phó sứ nước ta là ông Nguyễn Văn Tường ra điều đình mọi việc ở Bắc kỳ.

Đến Cửa Cấm thì ông Philastre và ông Nguyễn Văn Tường mới biết rằng đại uý Francis Garnier đã bị quân cờ đen giết mất rồi. Sử chép rằng khi được tin ấy, ông Philastre giận quá mà làm lỡ việc, mới ung dung mà nói rằng: “Việc đánh lấy Hà Nội suý phủ bảo không phải là bản ý,mà quân bản quốc ở 4 tỉnh Bắc kỳ cũng không tranh dành gì cả. Vậy hai bên không có làm điều gì trái nhau. Nay địa uý Francis Garnier chết, hoặc là bị giết chết, hoặc là vì dân nổi lên làm loạn, việc ấy ta chưa rõ. Huống chi trả thành lại để định hoà ước cho xong, ấy là lệnh của quý suý phủ; mà thu lấy thành rồi mới nghị hoà, ấy là mệnh lệnh của bản quốc. Còn như việc Hà Nội giết đại uý Francis Garnier thì cũng như đại uý Francis Garnier giết ông Nguyễn Tri Phương, việc đó xuất ư ý ngoại, chứ có phải lỗi chúng ta đâu. Bây giờ chúng ta ra đây, mắt chưa trông thấy việc gì cả, mới nghe thấy tin báo mà đã bỏ về, thế chẳng hoá ra mình đi uổng mất công không hay sao? Chi bằng ta cho người đưa thư lên Hà Nội bảo đem tàu xuống đón, chúng ta sẽ lên tới nơi, hoặc cứ theo mệnh lệnh mà làm, hoặc là xét rõ nguyên do tại làm sao mà đại uý Francis Garnier chết, rồi sẽ báo tin, thế chẳng ổn việc lắm hay sao?” Ông Philastre nghe lời ấy, bèn sai người đưa thư lên cho Hà Nội biết.

Ngay lúc ấy có tàu “Decrès” còn đóng ở gần Đồ Sơn, ông Philastre muốn sang tàu ấy để cho chiếc tàu mình đi là “D’ Estrées” trở về báo tin cho Sài Gòn biết. Nguyễn Văn Tường ngăn đi rằng: “Tàu của mình đã vào cửa rồi lại trở ra, nhỡ sĩ dân biết, lại bắt chước Hà Nội mà làm bậy, thì làm thế nào mà ngăn cấm được; sợ có việc tổn hại, thì lấy lẽ gì mà bẩm với quí suý. Vậy nay xin sai chiếc tàu “Decrès” ra bể, đuổi đánh những giặc Tàu ô, còn cứ đem tàu “D’ Estrées” vào đến hải Phòng, rồi ta lên Hải Dương, đem trả tỉnh thành lại cho bản triều, để tỏ cái lòng tin cho sĩ dân biết, sau ta lên Hà Nội, trả nốt cả mấy thành kia, và tra hỏi việc đại uý Francis Garnier chết ra thế nào về bẩm cho quí suý biết”.

Ông Philastre vốn là người rất công bằng, lại thấy ông Nguyễn Văn Tường nói hợp lẽ, bèn thuận nghe, và lên Hải Dương truyền trả lại cả 4 thành cho quan ta coi giữ. Còn những tàu bè và quân lính của Pháp ở các tỉnh thì thu về cả Hà Nội, rồi định ngày rút quân ra đóng ở Hải Phòng đợi đến ngày ký hoà ước xong thì rút về. Bấy giờ là tháng giêng năm Giáp Tuất (1874), là năm Tự Đức thứ 27.

Đồ Phổ Nghĩa thấy ông Philastre phá mất cả những việc của mình đã làm với đại uý Francis Garnier, bèn vào Sài Gòn kêu với suý phủ và đòi tiền phí tổn non một triệu nguyên .

8. HOÀ ƯỚC NĂM GIÁP TUẤT (1874). Mọi việc ở Hà Nội xếp đặt xong rồi, suý phủ ở Sài Gòn sai ông Rheinart (Lê Na) ra thay cho ông Philastre. Ông Philastre cùng với ông Nguyễn Văn Tường về Nam Kỳ, định sự hoà ước cho kịp ngày Thiếu tướng Dupré về Pháp.

Ngày 27 tháng giêng năm Giáp Tuất (1874), là năm Tự Đức thứ 27, Hải quân Thiếu tướng Dupré và ông Lê Tuấn, ông Nguyễn Văn Tường ký tờ hoà ước cả thảy 22 khoản, đại lược có những khoản này là quan trọng hơn cả.

Khoản II. Quan thống lĩnh nước Pháp nhận quyền độc lập của vua nước Nam không phải thần phục nước nào nữa, và khi nào vua nước Nam có cần đến việc gì để đánh dẹp giặc giã, thì nước Pháp sẵn lòng giúp mà không yêu cầu điều gì.

Khoản III. Vua nước Nam phải đoan nhận theo chính lược ngoại giao của nước Pháp, và chính lược ngoại giao hiện lúc bấy giờ thế nào phải để nguyên như thế, không được đổi khác đi.

Quan thống lĩnh nước Pháp lại tặng vua nước Nam:

1. 5 chiếc tàu có đủ máy móc súng ống.

2. 100 khẩu súng đại bác, và mỗi khẩu có 200 viên đạn.

3. 1.000 khẩu súng tay và 5.000 viên đạn.

Khoản IV. Quan thống lĩnh nước Pháp hứa cho quan sang giúp vua nước Nam để dạy tập lính thủy, lính bộ; cho những kỹ sư sang dạy làm mọi việc, và cho những người giỏi việc tài chính sang tổ chức việc thuế má và việc thương chính...

Khoản V. Vua nước Nam phải thuận nhường đứt đất 6 tỉnh Nam kỳ cho nước Pháp.

Khoản IX. Vua nước Nam phải để cho giáo sĩ được tự do đi giảng đạo, và để cho dân trong nước được tự do theo đạo.

Khoản XI. Vua nước Nam phải mở cửa Thị Nại (Qui Nhơn), cửa Ninh Hải (Hải Phòng), thành Hà Nội và sông Hồng Hà, cho ngoại quốc vào buôn bán.

Khoản XIII. Nước Pháp được quyền đặt lĩnh sự ở các cửa bể và các thành thị đã mở ra cho ngoại quốc vào buôn bán.

Khoản XV. Người nước Pháp hay là người ngoại quốc, hễ có giấy thông hành của quan lĩnh sự Pháp và có chữ quan Việt Nam phê nhận thì được phép đi xem các nơi ở trong nước.

Khoản XVI. Người nước Pháp và người ngoại quốc có điều gì kiện tụng tại đất Việt Nam, thì do lĩnh sự Pháp phân xử.

Khoản XX. Khi nào tờ hoà ước này ký xong, thì quan thống lĩnh nước Pháp đặt sứ thần ở Huế, để chiếu những điều đã giao ước mà thi hành. Vua nước Nam cũng được quyền đặt sứ thần ở Paris và ở Sài Gòn.

Tờ hoà ước ấy ký xong, thì quan chánh sứ Lê Tuấn mất, ông Nguyễn Văn Tường về Huế. Thiếu tướng Dupré giao mọi việc ở Nam kỳ cho Hải quân Thiếu tướng Krantz quyền lĩnh, rồi về Pháp.

Tháng 6, triều đình ở Huế lại sai quan hình bộ Thượng thư là Nguyễn Văn Tường và quan Lại bộ thị lang là Nguyễn Tăng Doãn, vào Sài Gòn cùng với Thiếu tướng Kranzt định các lệ về sự buôn bán ở nước Nam. Đến 20 tháng 7, thì tờ thương ước lập xong.

(Xem tiếp kỳ sau)


Tin liên quan

noData
Không có dữ liệu

Tin tiêu điểm

noData
Không có dữ liệu