A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

XXII. Nhà Nguyễn 143 năm (1802-1945), quốc hiệu Việt Nam (từ Minh Mạng là Đại Nam), kinh đô Huế (Thừa Thiên) (phần 2)

(Tiếp theo kỳ trước)

Thời kỳ Pháp đô hộ (1883-1945)

5. Dục Đức (Ưng Chân, 1883, làm vua 3 ngày)

Tự Đức có hàng trǎm vợ nhưng không có con, phải nuôi ba người con các anh mình làm con nuôi: Ưng Chân, Ưng Xuỵ, Ưng Đǎng.

Tự Đức chết, triều thần đưa Ưng Chân lên ngôi vua là Dục Đức. Trước ngày đǎng quang, Dục Đức bàn với 3 vị đại thần phụ chánh là Nguyễn Vǎn Tường, Tôn Thất Thuyết và Trần Tiến Thành sẽ không đọc một đoạn nhận xét về mình trong di chiếu tại lễ lên ngôi. Cả ba vị đều đồng ý. Hôm sau Trần Tiến Thành tuyên đọc đến đoạn đó thì đọc nhỏ đi hầu như không ai nghe rõ. Nguyễn Vǎn Tường, Tôn Thất Thuyết nổi giận, bắt đọc lại, rồi sai quân túc vệ bắt 10 người thân tín của vua.

Hai hôm sau, tại buổi thiết triều, Nguyễn Vǎn Tường tuyên cáo phế truất Dục Đức, đưa Hồng Dật lên ngôi tức là Hiệp Hoà.

Còn Dục Đức bị tống giam và bị đối xử tàn tệ gần một tháng sau thì chết, xác vùi trên một quả đồi, không có quan tài và không cho ai được đưa tang.

Mãi 20 nǎm sau, con trai thứ 7 là vua Thành Thái mới khôi phục đế hiệu cho cha là: "Cung tôn huệ Hoàng đế".

6. Hiệp Hoà (Hồng Dật, 6/1883-11/1883, làm vua được 6 tháng)

Hiệp Hoà tên huý là Hồng Dật, con thứ 29 và là con út của Thiệu Trị, sinh tháng 9 nǎm 1846.

Tháng 6/1883 phế xong Dục Đức, Nguyễn Vǎn Tường và Tôn Thất Thuyết xin ý chỉ của Hoàng thái hậu Từ Dũ đưa Hồng Dật lên ngôi vua, niên hiệu Hiệp Hoà.

Hiệp Hoà lên nối ngôi, Nguyễn Vǎn Tường và Tôn Thất Thuyết cậy công nên thâu tóm mọi quyền hành, không coi vua ra gì. Hiệp Hoà ghét lắm, muốn tước bớt quyền lực của họ. Hiệp Hoà làm vua được 4 tháng thì nhận được mật sớ của Hồng Sâm và Hồng Phi (Tham tri bộ lại, con của Tùng Thiện Vương) xin giết hai quyền thần Nguyễn Vǎn Tường và Tôn Thất Thuyết.

Hiệp Hoà phê vào sớ: "Giao cho Trần Tiến Thành phụng duyệt". Việc bại lộ, Hồng Sâm và Hồng Phi, Trần Tiến Thành đều bị giết chết, còn Hiệp Hoà bị ép uống thuốc độc tự vẫn chết vào ngày 29/11/1883 mới có 38 tuổi.

7. Kiến Phúc (Ưng Đǎng, 1883-1884)

Ưng Đǎng là con nuôi thứ 3 của Tự Đức, sinh ngày 2 tháng Giêng nǎm 1870. Vì Tự Đức không có con, lúc 2 tuổi được sung làm Hoàng thiếu tử, do Học phi Nguyễn Thị Chuyên nuôi dưỡng.

Nguyễn Vǎn Tường và Tôn Thất Thuyết phế Hiệp Hoà cho người đón Ưng Đǎng lập lên làm vua ngày 1/12/1883 niên hiệu là Kiến Phúc, lúc đó mới 14 tuổi.

Kiến Phúc lên ngôi vua, thế lực bà Học phi ngày càng lớn. Phụ chính Nguyễn Vǎn Tường rất muốn tranh thủ cảm tình của bà. Tháng 8/1884, Kiến Phúc bị bệnh đậu mùa, bà Học phi lúc nào cũng ở bên cạnh nhà vua bé bỏng của mình. Thế là Phụ chính Nguyễn Vǎn Tường tối nào cũng vào chầu Hoàng đế và Hoàng mẫu, có khi đến nửa đêm mới về. Trước thái độ quá ân cần có chiều lả lơi của Nguyễn Vǎn Tường với bà mẹ nuôi, Kiến Phúc hết sức khó chịu. Một hôm đang thiu thiu ngủ, nghe được câu chuyện giữa hai người, Kiến Phúc quát: "Khi nào lành bệnh rồi tao sẽ chặt đầu cả ba họ nhà mi". Nguyễn Vǎn Tường nghe được bèn xuống thái y viện lấy thuốc pha chế đưa cho Học phi. Theo lời khuyên của mẹ nuôi, Kiến Phúc đã uống thuốc đó tới sáng hôm sau thì qua đời.

Ngay tối hôm đó tại buổi thiết triều bất thường, Nguyễn Vǎn Tường tuyên cáo Kiến Phúc đã bǎng hà vì bệnh tình biến chuyển đột ngột và đưa em ruột là Ưng Lịch lên nối ngôi.

Kiến Phúc làm vua được 8 tháng thì mất, mới 15 tuổi.

8. Hàm Nghi (Ưng Lịch, 1884-1885)

Sau khi Kiến Phúc bị giết, ngày 1/8/1884 Ưng Lịch mới 13 tuổi được đưa lên ngôi vua, niên hiệu là Hàm Nghi. Lúc đó, Hoà ước Giáp Thân (6/6/1884) đã được ký kết. Lễ đǎng quang của Hàm Nghi không được Nam triều thông báo cho Khâm sứ Pháp tại Trung kỳ biết, nên Rê-na không thừa nhận vua mới.

Hai bên đang thương lượng, tướng De Courcy doạ sẽ đem quân sang bắt vua. Trước tình thế cǎng thẳng không thể trì hoãn được, đêm 7/7/1885, Tôn Thất Thuyết ra lệnh tấn công bất ngờ vào đồn Mang Cá và đồn quân Pháp đóng cạnh toà Khâm sứ. Quân ta đánh rất hǎng, song vũ khí quá thô sơ, chỉ huy liên lạc non kém, nên mấy giờ sau cuộc tấn công bị thất bại. Tôn Thất Thuyết phải hộ giá vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị.

Tại cǎn cứ Tân Sở trên cao nguyên miền Trung, phía Tây giáp Lào, vua Hàm Nghi đã phê chuẩn Chiếu Cần Vương, kêu gọi quân dân cả nước ra sức chống giặc Pháp. Hưởng ứng Chiếu Cần Vương, dân chúng và sĩ phu cả nước liên tiếp đứng lên chống Pháp. Thự dân Pháp dùng kế phản gián bắt được vua Hàm Nghi đưa về Huế ngày 14/11/1888, lúc đó vua mới 17 tuổi. Pháp tìm mọi cách mua chuộc, dụ dỗ, hòng thuyết phục Hàm Nghi cộng tác với chúng, nhưng đều bị khước từ thẳng thừng.

Không mua chuộc nổi, thực dân Pháp đưa vua Hàm Nghi đi an trí tại An-giê. Hàm Nghi sống ở An-giê được 47 nǎm thì mất, thọ 64 tuổi.

9. Đồng Khánh (Ưng Biện, 1885-1888)

Sau khi vua Hàm Nghi bỏ kinh đô Huế chạy ra Quảng Trị, xuống Chiếu Cần Vương chống Pháp, thực dân Pháp bàn với các đại thần cơ mật Nguyễn Hữu Độ và Phan Đình Bình đưa Ưng Xuỵ lên ngôi vua, niên hiệu là Đồng Khánh.

Đồng Khánh tên huý là Ưng Biện, con trưởng của Kiên Thái vương Hồng Cai, mẹ là Bùi Thị, nǎm 1865 lên 2 tuổi, được đưa vào làm con nuôi thứ hai của Tự Đức. Ngày 19/9/1885, dưới sự bảo trợ của Giám quốc người Pháp, Ưng Xuỵ được lên ngôi vua.

Lên ngôi vua, Đồng Khánh biết ơn nước Pháp, đã phong cho De Courcy tước "Bảo hộ quân vương", phong cho Sǎm-pô tước "Bảo hộ công" và tướng Oa-rơ-nô tước "Dực quốc công". Đồng Khánh còn chuyển tới tổng thống Pháp bức điện cảm ơn nước Đại Pháp và hứa sẽ mãi mãi giữ trọn tình giao hảo giữa hai nước.

Đồng Khánh càng thân Pháp bao nhiêu thì phong trào Cần Vương chống Pháp càng lan rộng khắp nơi. Pháp đã phải thừa nhận: "Chưa hề ở xứ nào, thời nào có một ông vua bị thần dân oán ghét như vua bù nhìn Đồng Khánh!"

Song, Đồng Khánh làm vua không được lâu. Ngày 25/12/1888, Đồng Khánh bị bệnh chết, ở ngôi được 3 nǎm, thọ 25 tuổi. Đồng Khánh có 9 người con (6 trai, 3 gái).

10. Thành Thái (Bửu Lân, 1889-1907)

Đống Khánh mất, các con trai còn quá nhỏ. Triều đình Huế vâng chỉ của Nghi Thiên Chương Hoàng hậu (vợ Thiệu Trị) và Lệ Thiên Anh Hoàng hậu (vợ Tự Đức) đón Hoàng tử Bửu Lân (con thứ 7 của Dục Đức) mới 8 tuổi về cung lên làm vua, niên hiệu là Thành Thái.

Thành Thái thông minh, hiếu học, khi 4 tuổi, vua cha là Dục Đức bị phế và chết trong tù, Bửu Lân phải ra sống ở ngoại thành với bà con lao động, đã từng chia sẻ gian khổ với những người nghèo trong cảnh nước mất nhà tan. Vì thế, khi làm vua đến 10 tuổi Thành Thái đã sớm có ý thức về quốc sự. Thành Thái rất thích học các tân thư chữ Hán của Trung Quốc, Nhật Bản. Thành Thái có ý thức tự cường dân tộc và có những dự định cách tân đất nước, song đều bị thực dân Pháp ngǎn chặn.

Thành Thái rất thương dân, thường hay vi hành để được gần dân chúng, để hiểu được sự đau khổ của dân một nước nô lệ.

Khâm sứ Pháp và quần thần Nam triều bù nhìn rất muốn truất ngôi của Thành Thái vì vua không chịu nghe theo ý hắn. Ngày 29/7/1907, Lê-véc-cơ nói thẳng với vua: "Nhà vua không thành thật cộng tác với chính phủ bảo hộ thì mọi việc đều do Hội đồng thượng thư tự quyết đoán. Nhà vua đã hết quyền hành và không được ra khỏi Đại Nội dành riêng cho vua".

Ngày 3/9/1907, triều thần theo lệnh của Pháp vào điện Càn Thành dâng vua dự thảo chiếu thoái vị với lý do sức khoẻ không bảo đảm, xin tự nguyện thoái vị. Xem xong bản dự thảo, Thành Thái nhếch mép cười, ghi ngay hai chữ "phê chuẩn" rồi quay lưng đi vào.

Ngày 12/9/1907 thực dân Pháp đưa Thành Thái đi quản thúc ở Cap Saint Jacques, đến nǎm 1916 thì đày ra đảo Réunion cùng với con là Duy Tân.

Thành Thái làm Vua được 18 nǎm, bị phế truất nǎm 28 tuổi. Sau 31 nǎm bị đi đày, nǎm 1947 được trở về Tổ quốc. Ngày 24/3/1954 Thành Thái mất tại Sài Gòn, thọ 74 tuổi.

11. Duy Tân (Vĩnh San, 1907-1916)

Phế truất Thành Thái, thực dân Pháp đưa hoàng tử Vĩnh San mới 8 tuổi lên làm vua để dễ bề sai khiến. Nhưng chúng không ngờ Duy Tân còn chống Pháp kiên quyết hơn vua cha.

Có lần Duy Tân ngồi câu cá với thầy học là Nguyễn Hữu Bài. Vua ra vế câu đối:

"Ngồi trên nước không ngǎn được nước, trót buông câu nên lỡ phải lần"

Thầy học Nguyễn Hữu Bài đối lại:

"Nghĩ việc đời mà ngán cho đời, đành nhắm mắt đến đâu hay đó"

Nhà vua buồn rầu nói: "Hoá ra thầy là người bó tay trước số mạng. Theo ý trẫm, sống như thế buồn lắm. Phải có ý chí vượt gian khổ, khó khǎn thì mới sống có ý nghĩa".

Cuối nǎm 1916, Duy Tân đã bí mật gặp hai nhà chí sĩ của Việt Nam quang phục hội (do Phan Bội Châu chủ xướng) là Trần Cao Vân và Thái Phiên bàn mưu khởi nghĩa đánh Pháp. Duy Tân đã chủ động tham gia và quyết định đẩy ngày khởi nghĩa sớm hơn để khỏi lỡ thời cơ. Cuộc khởi nghĩa bị lộ, ngày 6/5/1916 giặc Pháp bắt được vua Duy Tân cùng nhiều chí sĩ cứu nước ở Quảng Ngãi.

Toàn quyền Pháp đích thân gặp và dụ dỗ vua trở về ngai vàng. Duy Tân khẳng khái trả lời: "Các ngài muốn buộc tôi phải làm vua nước Nam thì hãy coi tôi là một ông vua đã trưởng thành và có quyền tự do hành động, nhất là quyền tự so trao đổi thư tín và chính kiến với chính phủ Pháp".

Thuyết phục và mua chuộc mãi không được, thực dân pháp đày Duy Tân sang đảo Réunion. Còn Trần Cao Vân, Thái Phiên, Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu đều bị chém đầu.

Trong chiến tranh thế giới thứ II (1939-1945), Duy Tân tình nguyện gia nhập quân đội "nước Pháp tự do" để chống phát xít, khi đồng minh chiến thắng, ông được giải ngũ với hàm thiếu tá không quân. Tháng 10/1945, Duy Tân chấp thuận đề nghị của tổng thống Pháp De Gaulle trở về Việt Nam nhưng bị tai nạn máy bay mất, thọ 46 tuổi.

12. Khải Định (Bửu Đảo, 1916-1925)

Thực dân Pháp đưa Duy Tân đi đày, lập Hoàng thân Bửu Đảo, con trai của Đồng Khánh lên ngôi vua, niên hiệu là Khải Định.

Khải Định là một ông vua bù nhìn mạt hạng, nên nhân dân Huế đã có ca dao chế giễu:

"Tiếng đồn Khải Định nịnh tây,

Nghề này thì lấy ông này tiên sư"

Ngày 20/5/1922, Khải Định sang Pháp dự Hội chợ thuộc địa Marseille. Để lật tẩy tên vua bù nhìn ôm chân Pháp, ngay ở Pháp những bài báo đanh thép của Nguyễn ái Quốc với vở kịch "Con rồng tre" và bản "Thất điều trần" của Phan Chu Trinh được công bố.

Ngày 6/11/1925, Khải Định qua đời thọ 41 tuổi, trị vì được 9 nǎm.

13. Bảo Đại (Vĩnh Thụy, 1926-1945)

Khải Định có 12 vợ nhưng không có con, Vĩnh Thuỵ là con của người khác, được Khải Định nhận làm con và đã được đưa sang Pháp đào tạo từ nǎm 10 tuổi. Khải Định chết, toàn quyền Đông Dương đưa Vĩnh Thuỵ lên ngôi vua niên hiệu Bảo Đại nhưng vẫn học ở Pháp. Triều đình do một hội đồng phụ chính điều hành.

Sau 10 nǎm học tập ở "mẫu quốc", ngày 16/8/1932, Bảo Đại xuống tàu biển về nước, ngày 10/9/1932 Bảo Đại ra đạo dụ số 1 tuyên cáo chấp chánh.

Bảo Đại thích đi sǎn bắn ở cao nguyên trung phần, chơi bời ở Đà Lạt với mỹ nữ.

Do sự xếp đặt của thực dân Pháp, ngày 20/3/1934, Bảo Đại cưới con gái một điền chủ Nam Kỳ, quốc tịch Pháp, theo đạo Thiên Chúa, tên là Mariette Jeanne Nguyễn Thị Hào, tức Nguyễn Hữu Thị Lan lập làm Nam Phương hoàng hậu.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương và lãnh tụ Hồ Chí Minh, cuộc tổng khởi nghĩa 19/8/1945 thắng lợi, đưa tổ quốc ta thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Ngày 30/8/1945, trước 5 vạn nhân dân cố đô Huế tập trung trước cửa Ngọ Môn, Bảo Đại tuyên bố thoái vị, trao ấn kiếm cho đại diện chính quyền cách mạng và tuyên bố "làm công dân một nước tự do còn hơn làm vua một nước nô lệ".

Sau đó công dân Vĩnh Thuỵ được chủ tịch Hồ Chí Minh mời làm cố vấn cho chính phủ lâm thời.

Nǎm 1946 Vĩnh Thuỵ được tham gia phái đoàn chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà sang Trung Quốc, Vĩnh Thuỵ đã ở lại nước ngoài. Tháng 4/1949, Vĩnh Thuỵ được Pháp đưa về làm Quốc trưởng bù nhìn, sau bị Ngô Đình Diệm lật đổ. Tháng 10/1956 Vĩnh Thuỵ sang Pháp sống lưu vong. Ngày 1/8/1997, Vĩnh Thuỵ mất tại Pháp.

(Xem tiếp kỳ sau)


Tin liên quan

noData
Không có dữ liệu

Tin tiêu điểm

noData
Không có dữ liệu