A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Yếu tố tâm linh trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, từ đáy lòng chân thành, đồng loạt hàng vạn ngôi chùa, đền, đình, miếu, nhà dân… ở khắp bản làng, thôn xã lập bàn thờ, treo ảnh, tượng Người. Đảng và Nhà nước cho nhiều nơi xây dựng nhà Bảo tàng, nhà Lưu niệm, đền thờ Hồ Chí Minh, ghi nhận và biểu thị tấm lòng biết ơn vị Phật, thiên tử, Thánh nhân… đã cứu giúp muôn dân thoát khỏi hàng trăm năm chiến tranh đọa đầy và gần thế kỷ dưới ách nô lệ thực dân, Người đòi hỏi quyền bình đẳng giữa con người với con người và giữa các dân tộc...



Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng vua Lào lễ Phật tại chùa Quán Sứ 

Vua Lý Thái Tổ thấu triệt nguyên lý triết học phương Đông nhận định sáng suốt mối quan hệ biện chứng thiên - địa - nhân, vừa lên ngôi, Người quyết định dời kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long (Hà Nội), bản Chiếu dời đô lịch sử ghi nhận: "Ở trung tâm bờ cõi đất nước, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi; vị trí ở giữa bốn phương đông, tây, nam, bắc; tiện hình thế núi sông sau trước…  xem khắp nước Việt ta, chỗ ấy là nơi hơn cả, thật là chỗ hội họp của bốn phương…"(1)

Kinh đô có vị thế vô cùng quan trọng đối với quốc gia. Xét tổng thể hình thế núi sông bao quanh kinh thành Thăng Long, theo hướng Bắc hoàn toàn dựa vào địa thế vùng núi vững vàng, trước mặt hướng Nam là đồng bằng thoáng rộng với nhiều hồ nước, hệ thống sông Hồng, sông Đà và nhiều sông khác chảy từ phải sang trái xuôi về biển lớn (tiền thuỷ - hậu thạch). Bên trái kinh thành (tả Thanh Long), trải dài dãy núi cánh cung Đông Triều với các ngọn núi cao Yên Tử, Vạn Kiếp, Côn Sơn… Bên phải kinh thành (hữu Bạch Hổ), gồm các dãy núi Tản Viên, núi chùa Hương, chùa Thầy, chùa Trầm… quy tụ thành tổng thể bền vững thế tay ngai.

Tỉnh Hà Tây nằm ở hướng Tây, hướng đại phúc, linh diệu, có những vùng núi lớn linh thiêng: núi chùa Hương Tích, núi Tản Viên, núi chùa Thầy, chùa Trầm… phù trợ, ngăn chặn tà khí, điều xấu cho kinh đô, khai mở đất tốt, vận lành và sinh nhiều người mệnh lớn, tài giỏi.

Chùa Hương Tích (Hà Tây) nơi thờ đức Phật Bà Quán Thế Âm đầy quyền năng, Ngài phát nguyện lắng nghe lời kêu cầu, cứu giúp chúng sinh thoát khỏi từng nỗi khổ đau và khuyên con người làm điều thiện không làm điều ác. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, văn bia, sử sách còn ghi lại nhiều sự tích, chuyện kể kỳ diệu, thiêng liêng của đức Thánh ở núi  Tản Viên (Hà Tây). Hơn hai ngàn năm nay, đức Tản Viên được suy tôn là vị thánh linh thiêng nhất trong bốn vị "Tứ bất tử" trường tồn trong những giá trị tâm linh. Một số vua, các quan và con dân nước Việt thường đến nơi thờ thánh Tản Viên thắp hương thành kính, Nhà nước và nhân dân thờ Ngài trong nhiều ngôi chùa, đền, đình, miếu…

Danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi viết: "Tản Viên là tên núi, núi có ba ngọn cao chót vót… núi ấy là núi tổ của nước ta đó… Thần núi Tản Viên gọi là Trụ Quốc Đại Vương linh hiển có tiếng…" (Nguyễn Trãi, toàn tập)

Thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh là linh hồn dẫn dắt mọi thắng lợi "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" của cách mạng Việt Nam, sự nghiệp hoạt động của Người có mối quan tâm hết sức đặc biệt với vùng đất linh thiêng Hà Tây...

Người bảo vệ, cộng sự gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông Dương Đại Lâm kể lại: "Thời gian ở Khuổi Nậm (Pắc Bó)… đầu năm 1942, Người đã dời lán cũ lên lán trên ở sâu trong rừng… ở  một gốc cây to gần lán có đặt một phiến đá dán giấy đỏ viết chữ Nho, lại có bát hương lên khói y hệt một cái miếu thờ Thổ thần. Bên trong lán, có tranh Phật Bà Quan Âm và câu đối đỏ dán ở vách…"(2). Nơi sống và làm việc, Hồ Chí Minh đặt bát hương thờ Phật Bà Quán Thế Âm và Thổ thần.

Năm 1958, hoà bình lập lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh thành kính đến thắp hương Phật Bà Quán Thế Âm tại Chùa Hương Tích (Hà Tây). Vị Thổ thần được thờ, Ngài chính là đức thánh tổ Tản Viên cai quản khắp các ngọn núi, vùng đất trên toàn cõi nước Việt, phù trợ đánh giặc ngoại xâm, dạy cho muôn dân nghề làm ruộng, chăn nuôi, đan lát, dựng nhà, làm ăn sinh sống và chữa bệnh…

Hàng năm, các ngôi chùa, đền, đình… thờ đức thánh Tản Viên đều tổ chức lễ hội, nhưng tiến hành qui mô trang trọng và lớn hơn vào các năm Tý - Ngọ - Mão - Dậu. Theo chu kỳ vận hội 12 năm, những năm Tý - Ngọ - Mão - Dậu thời tiết nóng, lạnh, hạn hán, lũ lụt, mưa bão bất thường. Trong năm, có bốn mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông, các tháng Tý - Ngọ - Mão - Dậu nằm vào chính giữa bốn mùa, là tháng nóng nhất, tháng lạnh nhất, hoặc tháng có khí hậu ôn hoà, mát mẻ. Trong ngày, giờ (12 giờ đêm) chính âm, giờ Ngọ (12 giờ trưa) chính dương, giờ Mão (6 giờ sáng) âm chuyển dương, giờ Dậu (6 giờ chiều) dương chuyển âm là thời khắc âm thịnh, dương thịnh, âm dương, dương âm giao hòa, biến chuyển vạn vật thiên nhiên, con người dễ giao cảm, thu nhận linh khí đất trời.

Thế kỷ XX, những trận chiến thắng vĩ đại mang tính quyết định của nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiên tri, dự báo trước đó vài năm, thậm chí hơn chục năm, đồng thời Người trực tiếp chỉ đạo toàn Đảng, toàn quân, toàn dân chuẩn bị thế trận đến từng chi tiết theo những thời kỳ cách mạng khác nhau nhằm giành thắng lợi hoàn toàn, giảm thiệt hại tổn thất cho nhân dân và tất cả đều nằm vào quy luật bốn năm lễ lớn theo chu kỳ Tý - Ngọ - Mão – Dậu của đức thánh Tản Viên.

Năm 1930 (Canh Ngọ), Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập;  Năm 1945 (Ất Dậu), Cách mạng Tháng Tám thành công diệu kỳ; Năm 1954 (Giáp Ngọ) chiến thắng Điện Biên phủ - "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu"; Năm 1960 (Canh Tý), Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thành lập và sự nghiệp cách mạng phát triển mạnh khắp miền Nam Việt Nam; Năm 1963 (Quý Mão) - Chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ; (Diệm tuổi Tý); Năm 1972 (Nhâm Tý) chiến thắng lịch sử "Điện Biên Phủ trên không", một trận chiến thắng kỳ lạ trong lịch sử; Năm 1975 (Ất Mão) giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu sụp đổ (Thiệu tuổi Tý); Năm 1969 (Kỷ Dậu) Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về cõi thế giới người hiền.

Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tầm nhìn thấu mọi cõi và tư tưởng vĩ đại "vì trong bốn biển đều là anh em", Người không muốn chiến tranh mang tính hủy diệt, tàn bạo, giết hại sinh linh, xảy ra trên đất Việt thân yêu. Người gửi nhiều lá thư đến Tổng thống Mỹ, các vị nguyên thủ quốc gia, muốn nước Mỹ giúp đỡ giải quyết cuộc chiến tranh Việt- Pháp, hơn nữa Hồ Chí Minh chân thành: "Mục tiêu của chúng tôi là độc lập hoàn toàn và hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ… sự hợp tác này trở nên có lợi cho toàn thế giới"(3).

Mặc dù trong nước còn nhiều khó khăn, nguy hiểm, đe dọa Nhà nước non trẻ, nhưng hơn ba tháng, Hồ Chí Minh thân hành sang Pháp, tìm mọi cách vận động Chính phủ, Quốc hội, nhân sĩ và các đoàn thể ở Pháp mong tham gia khối Liên hiệp Pháp, Hồ Chí Minh đã "nhân nhượng" trên tinh thần độc lập, tự do và bình đẳng giữa hai dân tộc, tránh chiến tranh thảm khốc xảy ra giữa hai nước Việt - Pháp.

Thời gian này, do chưa thấy hết, một số nhà lãnh đạo Pháp và Mỹ bỏ lỡ cơ hội. Không còn con đường nào khác, Hồ Chí Minh buộc phải lãnh đạo toàn dân tiến hành chiến tranh giành độc lập, thống nhất, tự do, dân chủ cho dân tộc.

Ngay trong những năm đầu chiến tranh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có ý tìm nơi an nghỉ cuối cùng tại khu linh thiêng K9, Đá Chông, Ba Vì (Hà Tây).

Năm 1949, Chính phủ tổ chức Đại hội Thi đua trên chiến khu kháng chiến, vào giờ nghỉ, Hồ Chí Minh hỏi nhà văn hóa Hoàng Đạo Thúy một suy tư ý nghĩa: "Đã quen rồi, cơm chiều xong… Một lần tôi thử xem rằng Cụ có thật ý "tìm hiểu" không… Cụ ngồi hòn đá bên hỏi:

- Cụ đi nhiều nơi thế, có thấy chỗ nào độ 50 mẫu đất tốt và cảnh đẹp không?

- Cụ tìm chỗ sau này, về nghỉ ư? Gần đây, ở Thủ Pháp, sau núi Tản, bên sông Đà, cảnh đẹp tuyệt trần, nhưng rồi ai để cho Cụ nghỉ đấy?

- Rồi cũng phải nghỉ chứ…"(4).

Hoà bình lập lại, Hồ Chí Minh tìm đến địa thế  khu K9 - Đá Chông, Ba Vì, một hợp thể tổng hoà diện rộng các yếu tố linh thiêng, trước mặt nơi quy tụ ba dòng: sông Hồng, sông Đà, sông Thao, sau lưng dựa núi Tản Viên, nước sông Đà chảy từ trái sang phải "trường lưu thủy" hội hợp về biển lớn "tiền thủy - hậu thạch". Nhìn toàn cục vùng đất "thế tay ngai", hội tụ phát tích linh khí, một trong năm vùng núi linh diệu bậc nhất của nước Việt.

Vùng núi Yên Tử (Quảng Ninh) trở thành kinh đô Phật giáo một thời, nơi đức vua Trần Nhân Tông cùng thiền sư Pháp Loa, Huyền Quang, các anh hùng giải phóng, đánh tan giặc Nguyên - Mông tàn bạo, đức Vua bỏ ngai vàng và mọi hư danh quyền lợi về tu hành, khai mở dòng tư tưởng lớn thiền phái Trúc Lâm thông dung thế thiên, địa, nhân, trụ vững vùng núi linh thiêng bậc nhất chống giặc ngoại xâm và các Ngài hoá Phật. Đức thánh Đại vương Trần Hưng Đạo sau khi đánh tan giặc tàn bạo về ở ẩn và hóa thánh ở vùng núi Kiếp Bạc (Hải Dương). Danh nhân văn hoá, nhà chính trị tư tưởng lỗi lạc Nguyễn Trãi về ở ẩn vùng núi Côn Sơn (Hải Dương) tạo thành dải núi vững vàng tả Thanh Long. Vùng núi hữu Bạch Hổ của kinh thành Thăng Long trải dài các dãy núi chùa Hương, núi Tản Viên, núi chùa Thầy, chùa Trầm… nơi đây, đức Phật Quán Thế Âm, đức thánh Tản Viên, đức thánh Từ Đạo Hạnh, danh nhân Hồ Chí Minh…, về trụ vững phát toả linh khí hồn thiêng nước Việt, tạo thế bền vững "nhân kiệt địa linh" bao quanh kinh thành Thăng Long - Hà Nội.

Hồ Chí Minh ngay khi còn sống, Người cẩn trọng dặn dò các chiến sỹ bảo vệ khu K9, Đá Chông, Ba Vì không được chặt cây, giữ nguyên nhiều quần thể khối trụ đá và phải rải sỏi trong sân để dễ phát hiện kẻ xấu vào phá hoại. Trong quá khứ, biết bao kẻ thù xâm lược thâm hiểm định đồng hóa và yểm triệt nhiều vùng linh thiêng của đất Việt, nhưng đều thất bại thảm hại vì "nhân mưu sao bằng thiên định", mưu đồ của kẻ xấu sao thắng được “sách trời”.

Hà Tây có di tích Chùa Thầy, Chùa Trầm, nơi ba đức Thánh tổ tu hành đạt chính quả linh diệu, các ngài thiền sư Từ Đạo Hạnh, Minh Không, Giác Hải cầu mưa, giải hạn, chữa bệnh cứu dân, giúp nước… Nhiều ngôi chùa Việt có ban thờ ba vị "tam thánh Phật" là danh phong linh ứng lạ kỳ, trong dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam. Trong những năm kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng sống và làm việc tại hai ngôi chùa thiêng này.

Ngày 18/12/1946, tại hang chùa Trầm (Hà Tây), Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc và phát lệnh Lời Kêu gọi Toàn quốc Kháng chiến chống Pháp. Sau buổi đó, vị sư cụ trụ trì đến chúc phúc, Người dặn sư cụ "cầu Phật phù hộ cho kháng chiến…"  và tặng nhà chùa đôi câu đối ý nghĩa cao sâu:

"Cao sơn hữu ý, thiên niên bút
Lưu thủy vô thanh, vạn cổ cầm"(5)

Dịch:

Non cao có ý, bút (lưu) ngàn năm,
Nước chảy không kêu, đàn (ca) muôn thuở.

Tròn mươi năm sau, ngày 13/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa lặng lẽ đến hang chùa Trầm. Hồi ký của ông Vũ Kỳ cho biết: "Hôm đó Bác đi một mình không cho ai đi theo, Bác đến chùa Trầm…". Người sỹ quan cao cấp Quân đội Nhân dân Việt Nam đóng quân tại chùa Trầm kể lại: "Hôm ấy Bác ở lại và làm việc suốt một ngày ở trong chùa Trầm, Bác bảo chúng tôi, các chú cứ làm việc của các chú, Bác làm việc của Bác… sau này chúng tôi mới biết  là hôm đó Bác muốn chọn một nơi thật yên tĩnh để hoàn thành văn kiện lịch sử "Lời Kêu gọi chống Mỹ cứu nước…". Chiều tối về, Bác dặn thêm: "Các chú phải tôn trọng tín ngưỡng của nhân dân… giữ gìn, bảo quản để mai sau đất nước hòa bình làm nơi tham quan rất tốt…(6)”.

Đôi câu đối của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà chùa trân trọng gắn trên tường tòa Phật điện, hiển hiện một chân lý, Hồ Chí Minh phải buộc lòng thao "bút (lưu) ngàn năm" và mãi mãi "đàn (ca) muôn thuở" lời kêu gọi hai cuộc kháng chiến thần kỳ của nhân dân Việt Nam  được viết và đọc tại "cao sơn hữu ý" chùa Trầm. Hai văn bản tuyệt bút, ghi nhận một giai đoạn lịch sử hào hùng, hiển hách, bổ sung những giá trị, mãi mãi ghi nhận trong dòng triết học, tư tưởng và văn hoá của nhân dân Việt Nam.

Đầu năm 1941, sau ba mươi năm lưu lạc khắp năm châu bốn biển tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh về nước không có bất cứ thứ gì ngoài hai bàn tay trắng, không vũ khí, không quân đội, không tiền bạc, khu căn cứ hoạt động còn manh mỏng, cơ sở vật chất không có. Về cùng Người có 43 chàng thanh niên nghèo, trí tuệ một lòng một dạ sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp. Lúc này quân đội Pháp, Nhật và chính phủ Nam Triều có gần 15 vạn quân, trang bị đầy đủ và thiện chiến, sự tương quan lực lượng quân đội và vũ khí không thể so sánh theo phương pháp duy lý, sự cân bằng vật chất. Vậy mà, Hồ Chí Minh sớm khẳng định trong bài thơ đầu tiên khi vừa đặt chân về nước, với trọng trách cao cả đảm nhận vận nước, như lời phán truyền, trực cảm của bậc thánh nhân, người phán quyết tự hào: "Hai tay xây dựng một sơn hà"(7).

Năm 1943, nhân dân Việt Nam chịu bao cảnh khổ đau hàng trăm năm do chiến tranh đầy đọa, Hồ Chí Minh lần nữa mở rộng nhận thức, cảm khái vận trách không thể thoái thác trước muôn dân. Người viết Nhật ký trong tù hào khởi, tinh anh: "Nhà lao mở then cửa trúc, rồng thật sẽ bay ra", không phải rồng giả, rồng tre như vua Khải Định; "rồng thật" hiểu theo tâm thế cao minh: "Biết chăng trong ngục có người khách tiên", vị Phật, thánh nhân một lòng một dạ sẵn sàng vì nghiệp lớn, vĩ đại: "Người thoát khỏi tù ra dựng nước"(8). Và, Hồ Chí Minh tính đúng thời cơ, vận nước, thoả tâm nguyện, Người thảo thơ hào sảng mà bao dung muôn cõi:

"Non nước của ta ta lấy lại,

Nghìn thu sự nghiệp nổi từ đây"(9).

Đầu năm 1949, trong Thư chúc Tết gửi đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh bộc bạch lòng thương cảm, mà vị thế: "Tôi rất đau lòng thương xót đồng bào… Tôi, người phụ trách số phận đồng bào, chưa lập tức… cứu vớt ngay đồng bào ra khỏi địa ngục thực dân"(10). Ngay sau khi ra tù, Hồ Chí Minh, Khách tiên, Rồng thật, Thiên tử, Người phụ trách số phận đồng bào, Cha già dân tộc… nhanh chóng về nước kịp nắm bắt thời cơ, lãnh đạo muôn dân "dựng nước" thật lạ kỳ và Người trở thành vị nguyên thủ quốc gia  huyền thoại.

Trong bối cảnh toàn cầu, các dân tộc nhược tiểu vẫn đang tủi nhục, mất nước, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Hồ Chí Minh, một Nhà nước dân chủ, nhân dân đầu tiên ra đời từ “Hai tay xây dựng một sơn hà”.

Nhận thấy vai trò hết sức quan trọng đối với các di tích, danh lam thắng cảnh và vùng đất linh thiêng, ngay sau ngày đọc Tuyên ngôn Độc lập hai tháng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 65 ngày 23/11/1945, nội dung: "Bảo tồn tất cả cổ tích trong toàn cõi Việt Nam, cấm phá huỷ đình, chùa, đền, miếu, các cổ vật, thành, quách, lăng, mộ, chiếu sắc, văn bằng … có ích cho lịch sử". Đồng thời, Hồ Chí Minh thảo và Quốc hội thông qua Hiến pháp (1946), văn bản quan trọng nhất, ghi nhận đường lối, thể chế, chính sách của Nhà nước Dân chủ Nhân dân, trong đó có quyền: "tự do tín ngưỡng …"(11) khác hẳn bản Hiến pháp thời kỳ này của một số nước cách mạng đã xóa bỏ quyền "tự do tín ngưỡng…" của nhân dân. Trọn đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với hàng chục di tích linh thiêng nhất của đất nước như đền Hùng, chùa Hương, chùa Côn Sơn, đền Ngọc Sơn, chùa Quán Sứ, đền Cổ Loa, chùa Thầy, chùa Trầm … Đến với mọi di tích, Người không hề bài bác, hết sức trân trọng giá trị tâm linh, thắp hương khởi phát vị thế linh diệu của chư vị Phật, thánh, thần…

Vài thế kỷ trước, nhân dân Việt Nam đau khổ bởi chiến tranh và ách áp bức, bóc lột của thực dân, nhiều trí thức, danh nhân viết sách, hồi ký, đàm luận về vận nước, họ mong mỏi bậc thánh nhân ra đời đảm trách, lãnh đạo dân tộc đấu tranh giành độc lập tự do. Cuốn sách "Nam Đàn xưa và nay" viết về một sự kiện kỳ lạ: "Trong cuốn Nghệ An ký của Hoàng Giáp Bùi Dương Lịch, viết vào cuối thế kỷ 18 có nhắc đến câu sấm… Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20…, có thể là một nhà Nho yêu nước nào đó, đã sửa câu sấm có mấy trăm năm trước thành câu sấm mới "Độn sơn phân giới, Bò Đái thất thanh, Nam Đàn sinh thánh"(12).

Các bậc trí tuệ như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng, Phan Anh… đều ca ngợi trọng trách cao cả vĩ đại mà Hồ Chí Minh đã tiên tri và là linh hồn dẫn dắt, mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Học trò của Nhà chí sĩ Phan Bội Châu viết: "Sinh viên Trần Lê Hựu đã hỏi trực tiếp ông già Bến Ngự Phan Bội Châu câu sấm: "Nam Đàn sinh thánh" có phải ứng vào cụ không? Cụ Phan trả lời ngay "Câu sấm ấy nếu có ứng thì chính là ông Nguyễn Ái Quốc "(13)

Võ Nguyên Giáp hết lòng trân trọng tầm nhìn Hồ Chí Minh, Đại tướng tin tưởng: "Bác thường kể chuyện với chúng tôi… về tình hình thế giới, trong nước và dự đoán tương lai. Bác nói chừng bốn hay năm năm nữa, cách mạng Việt Nam sẽ thành công… Câu nói của Bác, mà mọi người đã biết, giống như lời sấm truyền"(14).

Phó Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng được làm việc bên cạnh Hồ Chí Minh, hết lời ca ngợi trí tuệ siêu việt thấu thiên cơ:

"Tầm con mắt trông cao tột bậc

Nhận rõ đại cuộc, xét thấu thiên cơ"(15)

Trong Điếu văn tiễn biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh về cõi người hiền, Tổng Bí Thư Lê Duẩn nhấn mạnh: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ Tịch… và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta… mỗi người Việt Nam ta mãi mãi ghi lòng tạc dạ công ơn trời biển của Người.” (Tập 12, Điếu Văn).

Trước đó 20 năm (1949), Hồ Chí Minh nhận thức vai trò, hiểu thấu những lời nói, ý nghĩa việc làm của mình trước muôn dân, Người viết:

“Lời nói và ý nghĩa của Hồ Chủ Tịch đã thấu đến tai, động đến lòng của mỗi một người dân. Cho nên mỗi một người dân đều hiểu rõ, đều hăng hái hưởng ứng...” (Tập 5, trang 704)

Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, hiểu sâu sắc ý nguyện của Người, nhằm liên tục trụ vững, phát toả linh khí hồn thiêng hàng nghìn năm trường tồn của dân tộc, Đảng, Nhà nước đã xây dựng khu K9 - Đá Chông ở chân núi Tản Viên trở thành khuôn viên đẹp đẽ, trang nghiêm, nhiều quần thể trụ đá giữ nguyên và sân rải sỏi. Đặc biệt,  trên đỉnh cao nhất trong ba ngọn núi Tản Viên, Ba Vì (Hà Tây) xây vững vàng đền thờ Hồ Chí Minh to đẹp, nhiều đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước và muôn dân chân tâm, thành kính lên thắp hương tưởng niệm, biết ơn Người…

Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, từ đáy lòng chân thành, đồng loạt hàng vạn ngôi chùa, đền, đình, miếu, nhà dân… ở khắp bản làng, thôn xã lập bàn thờ, treo ảnh, tượng Người. Đảng và Nhà nước cho nhiều nơi xây dựng nhà Bảo tàng, nhà Lưu niệm, đền thờ Hồ Chí Minh, ghi nhận và biểu thị tấm lòng biết ơn vị Phật, thiên tử, Thánh nhân… đã cứu giúp muôn dân thoát khỏi hàng trăm năm chiến tranh đọa đầy và gần thế kỷ dưới ách nô lệ thực dân, Người đòi hỏi quyền bình đẳng giữa con người với con người và giữa các dân tộc. Trân trọng tôn thờ Hồ Chí Minh là Phật, Tiên, Thánh… trong lòng muôn dân, một hiện tượng độc đáo, bổ sung những giá trị tâm linh bền vững, cần ghi nhận trong lịch sử hào hùng dựng nước, giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh mong mỏi, dân tộc Việt Nam con rồng, cháu tiên hoà hợp với các nước trên hành tinh, kịp theo bước các cường quốc, hợp thời vận, ngày càng vinh hiển cùng cộng đồng nhân loại.

Lê Cường

Tài liệu tham khảo

(1).         Lịch sử Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, 1971, tr 151.

(2).         Đầu nguồn, NXB Văn học, 1975, trang 374.

(3).         Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2002, trang 177.

(4).         Hồi ký Hoàng Đạo Thuý - Tạp chí Xưa - Nay, số 5/1999

(5).         Bác Hồ với chùa Trầm, Tạp chí Văn hóa Dân gian số 5/1995

(6).             Nguồn sức mạnh (Bác Hồ với bộ đội phòng không), NXB Sự thật, 1995

(7), (8), (9) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia, HN, 2002

(10), (17)  Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, NXB Chính trị Quốc gia HN, tr 560

 (11).      Hồ Chí Minh với Quốc hội … NXB Chính trị Quốc gia, 2003.

(12).       Nghệ An xưa và nay, NXB VHTT, 1996.

(13).       Sấm ký Trạng Quỳnh, NXB Văn học, 2000.

 (14).      Võ Nguyên Giáp - Pắc Bó - Suối nguồn - NXB Văn hóa Dân tộc, trang 130.

(15).       Báo Nhân dân chủ nhật, ngày 24-4-1990.

(16).       Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, trang 516


Tin liên quan

noData
Không có dữ liệu

Tin tiêu điểm