A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Nguyễn Trãi và Âm Nhạc

Nguyễn Trãi - một người tài ba lỗi lạc, hiếu với cha, trung với nước. Khi nhà Vua không được coi là một minh quân thì ông đã treo ấn từ quan, nhưng lúc quốc gia cần, thì phụng sự hết lòng hết dạ. Trong nếp sống và quan điểm về âm nhạc, ông coi trọng bản sắc dân tộc và bài trừ những tư tưởng vọng ngoại.




Di ảnh Nguyễn Trãi

Lời mở đầu và tiểu sử của Nguyễn Trãi

Nhắc tới Nguyễn Trãi, đa số chúng ta đều biết rằng ông sanh tại Nhị Khê, tỉnh Hà Tây năm Canh Thân 1380, cháu ngoại của Trần Nguyên Đán, tôn thất nhà Trần, con trai của Nguyễn Phi Khanh. Lúc 20 tuổi đã đỗ bằng Thái Học Sinh dưới thời nhà Hồ (1400). Năm 27 tuổi đã theo Cha bị quân Minh bắt giải về Kim Lăng (1407) và đi tới Nam Quan, định theo phụng sự Cha trong cảnh tù đày. Nhưng đã trọn hiếu, nghe theo lời Cha khuyên phải trở về tìm cách báo thù cho Cha, rửa hận cho nước. Ông bị giam lỏng tại Nam Đông Quan (Hà Nội). Năm 38 tuổi (1418) cùng với Trần Nguyên Hãn trốn vào Lam Sơn, góp sức với người anh hùng áo vải Lê Lợi, khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh xâm lược ra khỏi bờ cõi, đem lại độc lập cho đất nước, tự do cho dân tộc Việt. Ông đã nổi tiếng nhờ bài Bình Ngô Ðại Cáo, là tác giả của Tập Gia Huấn Ca, Ức Trai Di Tập, Ức Trai Địa Dư Chí, Quốc Âm Thi Tập, một người văn võ toàn tài. Sau khi thắng trận Chi Lăng, theo phò Lê Thái Tổ (Lê Lợi) đến ngày Vua băng hà, lui về ẩn dật tại Côn Sơn - Hải Dương.

Năm 1434, vua Lê Thái Tông triệu ông ra làm quan. Đã nhiều lần dâng sớ cho nhà Vua trong những công việc giữ nước, dựng nước. Vua Thái Tông ái mộ Nguyễn Thị Lộ, phu nhân của Nguyễn Trãi nên gọi vào cung cho làm “Lễ Nghi Học Sĩ”  dạy lễ nghi, văn chương cho các cung nữ. Đến khi Vua đi tuần miền Đông, nghỉ đêm tại nhà của Nguyễn Trãi, vườn  Lệ Chi, xã Đại Lai trên sông Thiên Đức. Sau một đêm Vua băng hà. Triều đình các hoạn quan đều nói rằng Nguyễn Thị Lộ đã giết Vua và buộc tội cả Nguyễn Trãi.  Ngày 16-08 Âm lịch năm Nhâm Tuất (1442), Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ bị tru di tam tộc. Nỗi hàm oan ấy ngày nay mới được nhiều nhà nghiên cứu lịch sử làm sáng tỏ ra lòng trung quân ái quốc của Nguyễn Trãi và phu nhân Nguyễn Thị Lộ và ác tâm của bọn hoạn quan, đã cho một tỳ nữ lén bỏ thuốc độc vào bình trà của nhà Vua để vu oan Nguyễn Thị Lộ và trả thù Nguyễn Trãi.

Nhưng có lẽ ít người biết rằng Nguyễn Trãi làu thông âm nhạc và đã tham gia vào việc nghiên cứu và xây dựng nền âm nhạc cung đình của nhà Lê. Vì vậy, trong bài này chúng tôi giới thiệu một số chi tiết chứng tỏ vai trò của Nguyễn Trãi trong âm nhạc.

Nguyễn Trãi và âm nhạc

Có lẽ cũng cần nhắc lại một điểm quan trọng trong thái độ của Nguyễn Trãi đối với văn học nghệ thuật Việt Nam: rất rành chữ Hán, nhưng trong sáng tác ông dùng chữ Nôm nhiều hơn cả những văn nhân thời đó, rất nhiều bài thơ của ông, đặc biệt cả tập “Gia huấn ca”, được viết bằng chữ Nôm. Ông rất sành nghệ thuật uống trà, biết thưởng thức trà ngon của Trung Quốc, nhưng vẫn thích trà “Tước thiệt” (lưỡi con chim se sẻ) trồng tại Quảng Trị hơn các loại trà của Trung Quốc. Lúc giải trí không thích dùng các nhạc khí và những bản đàn có nguồn gốc từ Trung Quốc. Trong bài thơ “Tự thuật” cụ đã viết: “Cầm Nam ta gảy khúc Nam thôi …”.



Toàn cảnh khu đền thờ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, Hải Dương

Sau khi Lê Thái Tổ lên ngôi – năm thứ tư Đinh Tị 1437, mùa Xuân tháng Giêng, Vua đã sai quan Hành khiển Nguyễn Trãi cùng với Lổ Bộ Ty Giám là Lương Đăng đốc làm loan giá, nhạc khí, dạy tập nhạc và múa. (“Đại Việt sử ký toàn thư” Tập III Quyển XI Tr 112-146). Hành khiển Nguyễn Trãi dâng biểu về khánh đá và tâu rằng: “Kể ra, thời loạn dùng võ, thời bình chuộng văn. Nay đúng là lúc nên làm Lễ Nhạc. Song không có gốc thì không đứng được, không có văn thì không hành được. Hòa bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Thần vâng chiếu làm nhạc, không dám không hết lòng hết sức, nhưng vì học thuật nông cạn sợ rằng trong khoảng thanh luật , khó được hài hòa. Xin bệ hạ yêu nuôi nhân dân, để cho các nơi làng mạc không có tiếng oán giận than sầu, đó là không mất cội gốc của nhạc vậy”. Vua khen nhận, sai thợ đá ở huyện Giáp Sơn lấy đá ở núi Kinh Chủ để làm.

Đoạn vừa kể trên chứng tỏ rằng cụ Nguyễn Trãi đã có học lý thuyết về âm nhạc, nhưng lại có một tư tưởng rất mới là trong âm nhạc có nội dung mà cụ gọi là gốc của âm nhạc và hình thức mà cụ gọi là văn của âm nhạc. Theo cụ, cái văn không quan trọng bằng cái gốc và cái gốc xuất phát từ nhân dân. Nếu quốc thái dân an, nhân dân được sống một đời đầy đủ, hưởng tình thương lo của nhà Vua thì tiếng nhạc vui tươi. Nếu nhân dân bị thiếu thốn về vật chất lẫn tinh thần, cất tiếng ta thán, tiếng nhạc sẽ bi ai và cụ cho rằng như thế đã mất gốc của âm nhạc. Trong lịch sử chính trị và văn hóa nước ta chưa người nào đưa ra những ý kiến sâu sắc về âm nhạc như vậy.

Trong lúc làm việc với Lương Đăng có nhiều điểm bất đồng giữa 2 người. Lương Đăng có ý chép y lại những qui định nhạc cung đình của nhà Minh, đặt ra 2 dàn nhạc Đường Thượng Chi Nhạc tấu trên cung điện, và Đường Hạ Chi Nhạc tấu dưới sân đình. Dàn Đường Thượng Chi Nhạc gồm 8 loại nhạc khí thuộc về 8 âm (Bát âm) giống như dàn nhạc Triều Hạ Yến Hưởng Chi Nhạc của nhà Minh, chỉ khác số nhạc khí được dùng trong biên chế.

1. Huyền Đại Cổ (trống lớn treo) thuộc về âm Cách (Da).

2. Biên Khánh (một dàn 12 chiếc khánh nhỏ) thuộc về âm Thạch (Đá).

3. Biên Chung (một dàn 12 chuông nhỏ cùng một cỡ mà trọng lượng khác nhau) thuộc về âm Kim (Đồng).

4. Thiết Sắt Cầm (đàn Sắt 25 dây tơ, đàn Cầm 7 dây tơ) thuộc về âm Ty (Tơ)

5. Ống Sênh (một loại Kèn bè) thuộc về âm Bào (Bầu).

6. Các loại Ống Tiêu (thổi dọc), Quản, Thược, Trì (loại Sáo Trúc cổ, thổi ngang) thuộc về âm Trúc (Tre).

7. Chúc Ngữ (Chúc là một cái thùng bằng gỗ, trên lớn dưới nhỏ; Ngữ là một loại nhạc khí gõ, hình con Cọp trên lưng có những răng để cho nhạc công cầm một miếng gỗ quẹt nhẹ dài theo lưng cọp gây nên một tiếng “rẹt, rẹt”) thuộc về âm Mộc (Cây).

8. Huân (một ống thổi hình trứng ngỗng có khoét lỗ, 1 lỗ để thổi và 6 lỗ dùng những ngón tay bấm vào, làm bằng đất nung) thuộc về âm Thổ (Đất).

Về các loại nhạc thì Lương Đăng đề nghị có 8 loại:

1. Giao Nhạc (dùng trong cuộc tế Nam Giao).

2. Miếu Nhạc (dùng trong các Miếu như Thái Miếu, Thế Miếu , Văn Miếu …).

3. Ngũ Tự Nhạc (dùng trong 5 cuộc tế lễ, theo người xưa thì có thể dùng tế Thần 5 sắc trong cung hoặc là 5 vị Thần mang tên Câu Mang, Mục Thư, Huyền Minh, Chúc Dương, Hậu Thổ). Có người cho rằng 5 vị Thần trong cuộc tế lễ thuộc về Hộ (Cửa), Táo (Bếp), Trung Lưu (Giữa nhà), Môn (Cửa lớn), Hành (Đường đi).

4. Cứu Nhật Nguyệt Giao Trùng Nhạc (dùng để cứu mặt trời, mặt trăng trong lúc Nhật thực, Nguyệt thực, vì theo tín ngưỡng của một số người  Việt khi Nhật thực, Nguyệt thực đang diễn ra, lúc đó có một con Gấu khổng lồ muốn nuốt mặt trời và mặt trăng nên lúc đó phải có một loại nhạc dùng trống to đánh lên để làm cho con Gấu hoảng sợ không dám nuốt).

5. Đại Triều Nhạc (dùng trong những buổi quan trọng như lễ ngày sanh của nhà Vua, Tết Nguyên Đán, ngày mồng 1 hay ngày Rằm…).

6. Thường Triều Nhạc (dùng trong những buổi triều chính thường trong tháng).

7. Đại Yến Cửu Tấu Nhạc (dùng trong những buổi tiệc lớn).

8. Cung Trung Chi Nhạc (dùng để tấu trong cung như một đoạn nhạc tiêu khiển cho nhà Vua và triều thần).

Bốn tháng sau, Hành Khiển Nguyễn Trãi tâu rằng: “Mới rồi bọn thần cùng với Lương Đăng sửa định Nhã Nhạc, nhưng sở kiến của thần không giống sở kiến của Lương Đăng, thần xin trả lại mệnh ấy”. Trước kia, Thái Tổ sai Nguyễn Trãi định quy chế mũ áo, chưa kịp thi hành, Lương Đăng dâng thư đại khái nói: “Kể lễ thì có lễ Đại triều, lễ Thường triều. Tế Trời, cáo Miếu, ngày Thánh tiết, ngày Nguyên Đán thì làm lễ Đại triều, Hoàng đế mặc áo cổn, đội mũ Miện, lên ngồi ngai báu, trăm quan mang áo mũ triều. Còn như những ngày mồng một, ngày Rằm hằng tháng, thì Hoàng đế mặc áo bào vàng, đội mũ Xung thiên, ngồi ngai báu, trăm quan mặc áo công, đội mũ phác đầu. Thường triều thì Hoàng đế mặc áo bào vàng, đội mũ Xung thiên, ngồi sập vàng, trăm quan mặc áo thường cổ tròn, đội mũ sa đen”. Về lễ bộ thì có đại giá, xe loan lớn, xe ngựa kéo, có kiệu cửu long (9 con rồng) kiệu thất long (7 con rồng) có xe người kéo, đi bước một, xe chạy nhanh”…

Thư ấy dâng lên. Vua sai Lương Đăng định. Lương Đăng nhân thể mới dâng lên quy chế về áo mũ và nhạc khí. Đại khái quy chế do Lương Đăng và Nguyễn Trãi định, nhiều chỗ không hợp nhau, lời bàn về nhạc khí, lớn nhỏ, nặng nhẹ, nhiều điều trái nhau, mà cách tấu cũng không giống nhau, vì thế mà Nguyễn Trãi từ việc. Vua nghe lời đề nghị của Lương Đăng rồi làm theo.

Và trong sách Đại Việt sử ký toàn thư cũng không có ghi lại lời đề nghị của Nguyễn Trãi... Vua sai chép các ghi chú ấy treo ở ngoài cửa Thừa Thiên. Vua lễ Yết Thái miếu, các quan mặc triều phục làm lễ bắt đầu từ đấy.

Nguyễn Trãi mặc dầu không đồng ý với cách sắp đặt của Lương Đăng, không chỉ trích biên chế của dàn nhạc và các loại nhạc. Nhưng khi hành lễ thì những chi tiết trong cách tấu nhạc có nhiều điểm rất sai, Nguyễn Trãi với sự đồng tình của một số quan trong triều đình như Tham Tri Bạ Tịch, Nguyễn Tuyền, các quan Đào Công Soạn, Nguyễn Văn Huyến, Tham Nghị Nguyễn Liễu, đã dâng sớ tâu rằng: “Đặt lễ làm nhạc, tất phải đợi được có người mới làm, được như Chu Công thì mới không có ai chê trách. Nay sai kẻ hoạn quan Lương Đăng một mình định lễ nhạc cả nước chẳng nhục lắm ư? Vả lại lễ nhạc của y là dối Vua lừa dưới, không bằng cứ vào đâu, như trước kia, đánh trống là báo giờ ra chầu buổi sớm, nay Nhà Vua ra chầu rồi mới đánh trống. Theo quy chế xưa, lúc Vua ra, bên tả đánh chuông Hoàng chung, rồi năm chuông bên hữu ứng theo, lúc Vua vào thì đánh chuông Nhuy Tân (Di Tân, một trong 12 luật lữ) rồi năm chuông cùng ứng theo. Nay Vua ra chầu đánh 108 tiếng chuông, đó là số nhà sư lần tràng hạt. Theo qui chế thì Vua ngồi ở cửa Phụng Thiên phải có sập vàng, ở điện Phụng Thiên phải có ngai báu, nay chỉ có một Điện Hội Anh, lại chỉ có sập vàng, thế là lễ nghi gì ?”

Sau đó, đám hoạn quan rất thù Nguyễn Trãi và nghĩ ra mưu kế làm hại Nguyễn Trãi tại Lệ Chi Viên.

Kết luận

Đọc lại trang sử đó, tôi không khỏi ngậm ngùi và tiếc rằng một người tài ba lỗi lạc, hiếu với cha, trung với nước. Khi nhà Vua không được coi là một minh quân thì ông đã treo ấn từ quan, nhưng lúc quốc gia cần, thì phụng sự hết lòng hết dạ. Trong nếp sống và quan điểm về âm nhạc, ông coi trọng bản sắc dân tộc và bài trừ những tư tưởng vọng ngoại.

Khi xưa vì một Lương Đăng mà nhạc cung đình nhà Lê không được xây dựng vững chắc. Ngày nay, trong những việc tổ chức âm nhạc tại nước Việt, chúng ta cũng phải tránh để đừng có những “Lương Đăng” vọng ngoại và coi thường nhạc cổ truyền Việt Nam.

GSTS. Trần Văn Khê (Pháp)


Tin liên quan

noData
Không có dữ liệu

Tin tiêu điểm