A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

36 phố phường Hà Nội Xưa (Phần 1)

36 phố phường Hà Nội từ xưa đến nay là nơi hội tụ người tài của trăm vùng, mọi tinh hoa của đất Việt vốn "khéo tay hay nghề" quy tụ về vùng đất Thăng Long. Làng nghề ven đô giao lưu với nội đô khiến cho làng nghề, phố nghề Thăng Long - Hà Nội trở nên phong phú, đa dạng. Sản phẩm của những phố nghề không chỉ là sự kết tinh của lao động vật chất và lao động tinh thần mà còn đánh dấu sự phát triển của lịch sử Thủ đô, của văn hóa kinh kỳ.

Các phố được ngăn với nhau bởi những chiếc cổng lớn xây như bức tường mà bề rộng chiếm cả mặt đường, ban đêm được đóng một cách nghiêm ngặt. Trong mỗi phố là những dãy nhà san sát làm theo kiểu chồng bao diêm mà hiện nay chúng ta còn thấy ở các phố Hàng Buồm, Hàng Bạc, Hàng Ngang, Hàng Đào... Các dãy nhà này vừa là nhà ở lại vừa là cửa hiệu.

Cùng nhau ngắm 36 phố phường Hà Nội qua những tấm ảnh xưa có thể giúp chúng ta hiểu thêm về Hà Nội. 

Phố Hàng Chiếu

“Hàng Chiếu” có lẽ là cách định danh đúng hơn cả nếu so với 2 cái tên đã từng có, một do Tây đặt là “Jean Dupuis” và một theo cách gọi của dân là “Phố Mới”.

Sách “Đại Nam nhất thống chí” của triều Nguyễn đã xác định “Phố Đông Hà bán chiếu trơn”. Đông Hà là tên gọi cái cửa ô mà con đường này từ trong phố đi ra sông Hồng, cái cửa ô này dân thường gọi quen hơn là Ô Quan Chưởng. Đúng là thời xa xưa ở đây có bán chiếu cói nên người Pháp cũng từng định danh là “Rue des Nattes en joncs” (Phố chiếu cói).

Là cửa ngõ đi từ sông vào phần “thị” để vào phần” thành” của kinh đô xưa qua Cửa Đông, đủ thấy cái con phố ngắn này quan trọng như thế nào. Vì thế mà tấm ảnh được coi là cổ nhất được Bác sĩ Hocquard chụp để in trong cuốn sách của mình, thấy con phố này giống một đồn luỹ hơn là một khu dân cư hay thương mại. 

Và lịch sử đã chứng minh, khi lái buôn thực dân Jean Dupuis (tên Hán- Việt là Đồ Phổ Lỗ) ra Bắc kỳ lấy lý do tìm đường ngược sông Hồng sang Trung Quốc, đã ghé vào cửa Ô Đông Hà, thành Hà Nội giở trò khiêu khích kiếm cớ cho cuộc chinh phục sau này. Vì thế mà sau khi đã biến Hà Nội thành “đất bảo hộ”, rồi trở thành “nhượng địa”, người Pháp đã đặt tên phố này là “Jean Dupuis” để ghi công cho viên lái buôn-gián điệp này. Nhưng dân thì vẫn quen gọi là “phố Mới”, bởi lẽ khi có giao thương với người Pháp thì đây trở thành nơi cho Hoa kiều hay Pháp kiều đến mở chỗ giao dịch. 

 

Mặt khác, trận cháy phố Đông Hà đúng vào năm nhượng đất cho Pháp lập thành phố (1888) khiến nhà cửa đều mới xây lại không theo kiểu cũ như các phố cổ ở xung quanh. Phố vừa chạy thẳng ra cửa ô, lại kề chợ Đồng Xuân nên tấp nập người qua lại nhưng không phải chốn để nhà giàu lâp nghiệp. Vì thế, nó vẫn mang tính chất như cửa ngõ xuất hiện nhiều cơ sở dịch vụ hơn là kinh doanh.

Ngày xưa, nói đến phố này là nhắc đến Nhà Vạn Bảo chuyên cầm đồ và cho vay lãi, cũng như nơi tuyển người đi làm vú em, con ở hay mộ phu đi các nhà máy, đồn điền... 

Đoạn phố phía ngoài cửa ô còn những cửa hàng lụp xụp bán củ nâu và than củi đưa từ miền ngược về rồi đổ hàng từ bến sông Hồng lên chợ Đồng Xuân.

Phố Hàng Đường

Đường ray tàu điện chôn trên mặt đường rải nhựa cho thấy phố Hàng Đường nằm trên tuyến giao thông huyết mạch của đô thị. Hàng Đường là cái tên có từ trong ca dao xưa và không bị thay đổi, có chăng thêm cái tên phố Cầu Đông, khi có một chiếc cầu đá bắc ngang con sông Tô Lịch. Sông Tô Lịch hồi chưa bị lấp chảy dài từ Hàng Lược qua Hàng Cá, dọc Ngõ Gạch ra sông Hồng đoạn cuối Mã Mây.

Cũng vì có cây cầu đó mà không gian cận ảnh của tấm hình này xưa kia chính là Chợ Cầu Đông. Sông lấp rồi, cầu không còn, để khai thông con đường từ Bờ Hồ ra Hàng Đậu - là điểm giao với con đường khá quan trọng từ Cầu Sông Cái đi vào khu Thành cổ - nên chợ Cầu Đông xưa mới dịch chuyển sang một bên đường để lập ra cái chợ to và lấy tên hàng tổng là Đồng Xuân.

 Tuyến tàu điện trên phố Hàng Đường xưa. (Ảnh: Skcs.vn)

Về sau này, Hàng Đường có nhiều hàng bánh mứt kẹo có tiếng, đặc biệt sầm uất vào những ngày giáp Tết Trung thu với bánh nướng, bánh dẻo hay Tết Nguyên đán với các loại mứt, kẹo. Ngoài đồ ngọt, nhiều cửa hàng vải vóc, có cả của Ấn kiều cũng tràn từ phía Hàng Đào, Hàng Ngang xuống phố này, cùng nhiều cửa hàng tạp hoá của người Hoa.

Người ta kể rằng trong 2 tháng bị vây hãm trong nội thành, quần nhau với giặc Tây hồi giáp Tết Đinh Hợi (cuối năm 1946 đầu 1947), các chiến sĩ quyết tử Thủ đô sống được là nhờ gạo nếp, đường , nông sản dự trữ làm mứt Tết của những cửa hàng bánh kẹo trong phố.

Nối dài phố Paul Bert (Tràng Tiền) sầm uất đoạn qua góc Tây Nam Hồ Gươm đoạn nối với Tràng Thi được gọi là phố Hàng Khay, vốn là đất của hai thôn Thị Vật và Vũ Thạch.

 Một cửa hàng bánh kẹo trên phố Hàng Đường trong dịp Tết Trung thu. Cho đến nay,
con phố này vẫn còn giữ nghề truyền thống là sản xuất là buôn bán bánh kẹo, ô mai cổ truyền. (Ảnh: Skcs.vn)

Phố Hàng Khay và dãy hàng hoa

Khay là món đồ gỗ dùng để đặt ấm chén uống trà hay rượu. Nó đẹp nhờ tài khéo của người thợ khảm trai hay ốc lên mặt gỗ. Làng nghề thợ khảm vốn tập trung tại đất bị Tây lấy làm đường Paul Bert tức là phía đầu Tràng Tiền bây giờ, dồn sang đây. Đất trên trục phố chính giá trị cao nên thợ tản về quê chỉ còn một vài cửa hàng, sau cũng mất dần chỉ còn cái tên. Ở đó là các cửa hàng sang trọng của người Tây, một vài nhà buôn Việt Nam hay Ấn Độ cũng mở cửa hàng trên phố này.

Toàn cảnh nhìn từ ngã Tư Tràng Tiền

Đặc điểm của phố Hàng Khay là chỉ có nhà bên số lẻ vì bên kia đường là Bờ Hồ, Tây quy định không được phép xây nhà phía Hồ. Đoạn đường ngắn này một thời gây ấn tượng là do những quán hoa của các cô gái các làng hoa mạn Tây Hồ ngồi thành dãy bên kia đường, phía hồ. Trước ở đây còn có một vòi phun nước nhỏ.

 Dãy phố Hàng Khay sầm uất cửa hàng

Tấm ảnh dãy hàng hoa khiến ta cảm nhận được phần nào cư dân của Hà Nội hồi đầu thế kỷ XX, cộng đồng người Việt và người Pháp sống chung trên thành phố này. Trang phục thật đa dạng, những cô thôn nữ các làng hoa ven Hồ Tây, những chàng trai Việt người còn quấn khăn, kẻ đội mũ phớt hay loại mũ bấc sau này làm bằng vật liệu cứng cho bộ đội được gọi là mũ “cối”. Đây là loại mũ lợp vải ka ki rất phổ biến thời thuộc địa. Còn các cô gái người Âu thì diện các loại váy (robe) và đội những chiếc mũ vải rất thịnh hành đương thời.

Hàng hoa bày bán trên phố 

Rồi có thời người ta xây thành dẫy “kiot” bán hoa, nhưng đến nay chẳng còn vết tích gì ngoài một tầm nhìn cho thấu tới bên bờ Bắc của hồ, khu “36 phố phường”. Chỉ tiếc cái bồn phun nước tuy nhỏ nhưng đẹp nay không còn nữa.

Phố Hàng Gai

Cái tên một thứ sản phẩm không mấy giá trị mặc dù rất thông dụng là sợi gai được bện làm thừng rồi đan thành võng hay các loại bị... có lẽ là dĩ vãng của một thời xa xưa, cũng vì thế dân gian còn gọi là “Phố Hàng Thừng”.

Quả thật, cái tên gọi ấy không tương xứng với một đoạn đường phố vốn là đất của hai phường Đông Hà và Cổ Vũ thuộc Tổng Tiền Túc, huyện Thọ Xương, đi thẳng từ Hồ Gươm qua Hàng Bông vào khu Cửa Nam của Kinh thành xưa mà sau này, người Pháp thiết lập một tuyến đường xe điện đi dọc phố này.

Phố Hàng Gai lại gần ngôi đền thờ việc học (Ngọc Sơn), khiến cho từ lâu phố này gắn với sách vở, giấy bút cho các nho sinh, các cửa hiệu khắc mộc bản và in sách nổi tiếng cho các nho gia qua lại mua hoặc đổi sách nát lấy sách mới.Vì thế, thời Tây chiếm, Công sứ Bonnal đã chọn một ngôi nhà đẹp ở phố này làm trụ sở xế gần nhà Tổng đốc và nhiều nhân vật trí thức danh giá khác của Hà Thành cư ngụ tại đây.

Chính Hàng Gai chứ không phải Hàng Mã là nơi bán các đồ chơi của trẻ con làm bằng giấy, trong đó có “ông tiến sĩ giấy” nổi tiếng vào dịp Tết Trung Thu.

 Nhà sử học Dương Trung Quốc


Tin liên quan

Tin tiêu điểm

noData
Không có dữ liệu