A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Câu chuyện Ba Đình

Quảng trường Ba Đình, trái tim của Hà Nội là một trong những điểm lịch sử và danh thắng nổi tiếng của thủ đô Hà Nội. Ba Đình có được vinh dự ấy bởi một sự kiện vô cùng quan trọng - ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại đây, trước sự chứng kiến của 50 vạn nhân dân Hà Nội và các vùng lân cận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc Lập, khai sinh nước Việt Nam.

Quảng trường Tròn thời Pháp

Quảng trường Ba Đình hiện nay là khu đất nằm giữa các phố Hùng Vương, Hoàng Văn Thụ, Độc Lập và phố Chùa Một Cột, ngay trước Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vị trí đó vốn là khu vực phía Tây của Cấm thành Thăng Long và cũng là khu vực cửa Tây của thành Hà Nội cổ mà ngày nay ta có thể nhận diện được qua một vài nét phác họa sau đây: tường thành phía Tây chính là đường Hùng Vương, cửa chính Tây là địa điểm Lăng Chủ tịch Hồ Chí  Minh và núi Khán Sơn (nơi mà trước đây vua Lê Thánh Tông thường ngự trên đó để duyệt vũ nghệ) là bãi cỏ phía Bắc Quảng trường Ba Đình.

Năm 1888, triều đình nhà Nguyễn chính thức ký đạo dụ dâng Hà Nội làm đất nhượng địa của Pháp. Với mục đích biến Hà Nội trở thành một thành phố kiểu Pháp, một “Paris thu nhỏ”, thực dân pháp tích cực tiến hành các hoạt động quy hoạch, xây dựng và mở mang thành phố, từng bước hoàn thiện để Hà Nội xứng đáng với vị trí thủ phủ của Đông Dương.

Năm 1890, hoạt động đầu tiên người Pháp tiến hành ở khu vực này là việc lập ra một khu vườn thí nghiệm trồng rất nhiều các giống cây và nuôi thú gọi là Vườn Thảo mộc (còn có tên là Trại Hàng Hoa hoặc Vườn Bách Thú, nay là công viên Bách Thảo). Tiếp đó, trong những năm 1894-1897, thực dân Pháp tiến hành phá bỏ bốn phía tường thành, lấy đất đá và gạch vụn để lấp hào, mở mang một số đường phố mới. Khu vực phía Tây thành cũng được khai quang và mở mang xây dựng từng bước.

Năm 1902, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer chọn một khu đất trang trọng ở phía Bắc thành phố, gần Hồ Tây, gần Trại Hàng Hoa, nơi có cốt đất cao ráo, địa hình đẹp, khí hậu tốt để xây dựng Phủ Toàn quyền (nay là Phủ Chủ Tịch, nằm cạnh góc Tây Bắc của Quảng trường Ba Đình). Đây là một công trình nhằm nhấn mạnh quyền lực của bọn thống trị, nên được xây dựng cao to, đồ sộ, có chiều cao 3 tầng với kiểu bố cục 3 khối kiến trúc, một khối lớn ở giữa và hai khối bên nhô ra đối xứng nhau. Từ cách lựa chọn đất xây dựng cho đến hình thức kiến trúc của Phủ Toàn quyền đều cố gắng thể hiện vẻ tôn nghiêm và uy lực.


 
Vườn hoa Rond Point Puginier nhìn từ phía Đông Nam, sau là Vườn hoa Ba Đình rồi trở thành Quảng trường Ba Đình lịch sử. Công trình phía trên là phủ Toàn quyền (nay là phủ Chủ tịch). Ảnh tư liệu


Mặt trước của Phủ Toàn quyền là một đường phố rộng được trải nhựa, chạy theo hướng Bắc Nam, lúc đầu có tên là phố Thành Thái, sau đổi là đại lộ Briere de L’Isle (nay là đường Hùng Vương). Nằm vuông góc với đường phố này là con đường dẫn thẳng tới cổng chính của Phủ Toàn quyền có tên là đại lộ Cộng Hòa (sau 1945 đổi thành đại lộ Dân Quyền và từ 1945 đến nay có tên là phố Hoàng Văn Thụ).

Ngay sát cạnh phía bắc của đường phố này là Trường trung học Albert Sarraut (nay là Văn phòng Trung ương Đảng) được Pháp xây dựng sau khi xong Phủ Toàn quyền (1906). Đây là trường chủ yếu dành cho học sinh người Pháp hoặc lai tây có bố mẹ là công chức và một số con cháu thuộc dòng dõi quý tộc Luang Prabang, con cháu bọn Tổng đốc Vân Nam và một số ít quan lại, tư sản người Việt có thế lực. Xét về mặt kiến trúc, công trình này chưa đạt được sự hài hòa giữa nghệ thuật kiến trúc và chức năng sử dụng nên bị đánh giá là “ ngôi trường xây như trại lính”.

Ngoài ra, Pháp còn xây dựng thêm ở khu vực này một Câu lạc bộ thể dục thể thao chủ yếu dành cho người Pháp, thường gọi là nhà Xéc và vòng đua xe đạp ở phía đầu đại lộ Puginier (nhân dân quen gọi là đường Cột Cờ, nay là đường Điện Biên Phủ). Phía ngay ngoài cổng của  Phủ Toàn quyền, chúng làm một vườn hoa nhỏ gọi là Điểm tròn Puginier (còn có tên là Quảng trường Tròn). Còn một khoảng đất trống giữa Quảng trường Tròn và đại lộ Victo Hugo (năm 1932 được đổi tên thành đại lộ Pierre Pasquier, nay là đường Hoàng Diệu) người Pháp cũng dự định làm một đường phố rộng đi qua một công viên lớn nhưng không thực hiện được.

Và Quảng trường Tròn dưới thời Pháp thuộc cũng “chưa có gì đáng chú ý lắm, xung quanh còn nhiều bãi đất rộng đầy cát sỏi, không có cây cối, những khoảng đất chờ được xây dựng”.

Ba Đình, sứ mệnh lịch sử huy hoàng

Cho đến những ngày tháng Tám năm 1945, không khí cách mạng của Hà Nội sục sôi với nhiều sự kiện diễn ra ở các khu vực Phủ Khâm sai, Quảng trường Nhà hát lớn…nhưng ở đây vẫn tương đối yên ả nên không có gì đặc biệt. Chỉ đến khi Ban tổ chức của buổi lễ tuyên bố độc lập và ra mắt Chính phủ lâm thời đi tìm một địa điểm rộng gần trung tâm thành phố, đủ cho một cuộc mít tinh lớn có thể tập trung được khoảng 50 vạn người thì khu vực Quảng trường Tròn là một địa điểm phù hợp để lựa chọn.

Chính sự lựa này đã đưa Quảng trường Tròn dần dần bước tới sứ mệnh lịch sử huy hoàng và công cuộc kiến thiết ở khu vực này cũng chuyển sang một giai đoạn mới.


 
Lễ Tuyên ngôn độc lập trên Quảng trường Ba Đình


Một lễ đài đơn sơ được chuẩn bị nhanh chóng với một bục gỗ cao đặt giữa Quảng trường, xung quanh quấn vải, dán khẩu hiệu, trên bục có cột cờ. Đó chính là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập và Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra mắt trước quốc dân đồng bào trong buổi mít tinh ngày 2-9-1945. Cũng từ giờ phút ấy, nơi đây trở thành một không gian thiêng liêng, gần gũi với người dân Hà Nội. Điểm tròn  Puginier được thay bằng tên gọi mới “Vườn hoa Ba Đình” nhưng nhiều người vẫn quen gọi đó là Vườn hoa Độc lập hay Quảng trường Độc lập.

Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc, thủ đô Hà Nội được hoàn toàn giải phóng (10-10-1954) chính quyền và nhân dân đã bắt tay ngay vào công cuộc khôi phục, cải tạo và xây dựng thủ đô.
 
Nhận thức được ý nghĩa lịch sử to lớn và vị trí quan trọng của khu vực Quảng trường Ba Đình, chúng ta đã từng bước tiến hành kiến thiết và sửa sang, biến nơi đây thành khu tập trung các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước ta. Phủ Toàn quyền của Pháp trước đây chuyển thành Phủ Chủ tịch, Trường trung học Albert Sarraut chuyển thành nơi làm việc của Văn phòng Trung ương Đảng, Sở Tài chính chuyển thành trụ sở Bộ Ngoại giao… Các đường phố được đổi lại tên gọi mới với nhiều ý nghĩa khác nhau. Cảnh quan nơi đây cũng dần dần thay đổi.

Công trình đầu tiên được xây dựng ở khu vực này ngày sau khi chính quyền mới về tiếp quản thủ đô là Lễ đài Ba Đình. Đây là một Lễ đài làm bằng gỗ ở vị trí Lễ đài năm 1945, có kiến trúc đơn giản, với khán đài lớn ở giữa có hình khối đặt trên 3 cổng vòm cuốn, có mái che, ở giữa là chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, hai bên có dòng chữ số 1945-1954. Hai bên lễ đài là hai khán đài phụ xây bằng gạch dành cho quan khách.

Lễ đài này cùng với Quảng trường Ba Đình cũng chính là nơi đã diễn ra buổi mít tinh của nhân dân Hà Nội chào đón Trung ương Đảng và Chính phủ về lại thủ đô. Đến năm 1958, Lễ đài gỗ bị tháo dỡ, thay vào đó bằng kiến trúc gạch theo đúng quy cách cũ. Lễ đài này tồn tại cho đến năm 1973 thì được phá đi để lấy chỗ xây Lăng Chủ Tịch Hồ Chí Minh.

Công trình lớn thứ hai là Hội trường Ba Đình được xây dựng vào đầu những năm 60 ở phía đối diện của Lễ đài Ba Đình. Đây là công trình do kiến trúc sư Trần Hữu Tiềm thiết kế, có không gian lớn với phòng họp chính đủ chỗ cho 1000 người dự họp và những phòng họp nhỏ, thường dùng làm nơi tổ chức các hội nghị quan trọng, các kỳ họp của Quốc hội và các sinh hoạt chính trị khác của đất nước.

Được xây dựng trong điều kiện kinh nghiệm của ta còn hạn chế, số vốn đầu tư không nhiều, vật liệu ít ỏi nên bên cạnh một số những hạn chế về chất lượng kiến trúc như “vấn đề về hình khối, về tỷ lệ các thành phần kiến trúc và về sự tương quan thống nhất giữa các mặt đứng”, công trình đã đạt được những thành công nhất định. Đó là việc sử dụng các vật liệu tốt quý, những đi sâu nhất định về trang trí, tiện nghi đầy đủ, âm thanh và ánh sáng tương đối thích hợp, thông thoáng tự nhiên…Điều này đã nói lên những cố gắng lớn của những người thiết kế và thi công công trình.

Vào nửa đầu những năm 70, Nhà nước và nhân dân ta đã tiến hành xây dựng một công trình có ý nghĩa chính trị hết sức to lớn, đó là Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh và cùng với đó là việc cải tạo lại Quảng trường Ba Đình. Đây là một trong những sự kiện xây dựng mà nhân dân thủ đô và cả nước dành tất cả tình cảm và nhiều cố gắng vật chất vào đó.


 
Ba Đình hôm nay


Công trình Lăng được khởi công xây dựng  ngày 2/9/1973 (4 năm sau ngày Bác qua đời) tại vị trí của lễ đài Ba Đình cũ và được khánh thành vào ngày 29/8/1975. Thiết kế kiến trúc và thi công công trình được lựa chọn xây dựng là phương án đã được nghiên cứu kỹ lưỡng sau khi lấy ý kiến đóng góp của đông đảo nhân dân. “Lăng gồm 3 lớp, chiều cao 21,6 mét. Lớp dưới tạo dáng bậc thềm tam cấp, cấp dưới của bậc thềm là lễ đài dành cho Đoàn chủ tịch các cuộc mít tinh tổ chức ở quảng trường. Lớp giữa là kết cấu trung tâm của lăng gồm phòng đặt thi hài và  những hành lang, cầu thang lên xuống. Quanh tam cấp. Cấp dưới vút lên thanh thoát, hai cấp trên thẳng nét tạo dáng lại không gian đỉnh lăng. Mặt chính lăng có đắp dòng chữ “Chủ tịch Hồ Chí Minh” bằng đá hồng ngọc màu mận chín”.

Trải dài phía trước Lăng và khán đài là Quảng trường Ba Đình mới được cải tạo lại khi xây dựng Lăng. Quảng trường có diện tích 3,2 ha, (chiều dài 320 mét, chiều rộng 100 mét, rộng hơn rất nhiều so với Quảng trường cũ) được quy hoạch theo dạng sân vườn với 168 ô trồng cỏ xen kẽ với những đường đi dạo song song và cách đều nhau. Những ô cỏ xanh mượt bốn mùa này có tác dụng cải tạo khí hậu rất tốt khiến cho Quảng trường không bị quá nóng về mùa hè. Chính điều này đã thu hút rất đông nhân dân Hà Nội đến đây dạo mát và vui chơi.

Ngoài ra trong tổng thể Cụm di tích lịch sử - văn hóa Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có các công trình: Nhà sàn  Bác Hồ, chùa Một Cột, Bảo tàng Hồ Chí Minh (phía sau Lăng) và Đài tưởng niệm các liệt sỹ (phía sau Lăng, trên phố Bắc Sơn).Tất cả đều nằm trong ý đồ của các nhà kiến trúc và quy hoạch đô thị, góp phần khép kín không gian và làm đẹp thêm cho cảnh quan nơi đây, đồng thời góp phần nhấn mạnh ý nghĩa lịch sử, chính trị to lớn cũng như vị trí quan trọng đặc biệt của khu vực này.

(Theo Bee.net)


Tin liên quan

noData
Không có dữ liệu

Tin tiêu điểm

noData
Không có dữ liệu