Lễ cúng Việc lề
Cúng Việc lề khá phức tạp, đa dạng vì ở Nam bộ, tín ngưỡng này bao hàm nhiều nội dung được đan ghép vào nhau. Người dân Nam bộ quan niệm về tín ngưỡng này khá rõ ràng, rạch ròi như một công thức: "Trước hết là cúng Việc lề, sau là sẵn cúng đất, cúng cô hồn, cầu an cho dòng họ".
Cúng Việc lề là cúng các vị thủy tổ dòng họ của những lưu dân từ miền Trung đi vào Nam khẩn hoang, lập làng từ vài thế kỷ trước. Do gốc gác cư dân từ miền Trung nên thức cúng việc lề của họ cũng là những món ăn truyền thống của miền Trung như thịt phay, cháo nấu ám (cháo nấu thật nhừ với cá lóc để nguyên cả con)…
Điểm đặc biệt trong nghi thức cúng Việc lề là người cúng cố tái hiện lại cuộc sống nhọc nhằn, cơ cực của ông bà, tổ tiên thời xưa đi khẩn hoang ở Nam bộ, như thức cúng chỉ dọn trên đệm bàng hoặc chiếu trải dưới đất ngoài sân. Chén bằng gáo dừa, đũa làm bằng que tre… Thức cúng đều là những món ăn mộc mạc, đơn sơ, phản ánh hoàn cảnh sống thiếu thốn, như cá lóc nướng trui, cháo ám, cá để nguyên vảy, không chặt bỏ kỳ, vi, đuôi (vì không có dao); rau ráng luộc (rau mọc dại ven sông), mắm sống, cốm nổ rang v.v…
Cách thức cúng như thế nhằm để con cháu đời sau hình dung phần nào cuộc dấn thân phiêu bạt tìm đất sống gian nan của tiền thân, từ đó nhớ ơn tổ tiên và cố gắng sống cho xứng đáng với sự hy sinh ấy.
Cúng Việc lề còn là dạng "giỗ hội", là ngày "hiệp kỵ" tổ tiên của một dòng họ, những bậc tiền bối quá vãng từ 4 đời trở về trước được tổ chức cúng gom chung lại thành giỗ "Cửu huyền thất tổ". Các bài vị thờ quá 4 đời trong nhà sẽ được con cháu chuyển về thờ chung nơi miếu họ, từ đường… để rồi đến ngày giỗ của dòng họ sẽ tổ chức "giỗ hội" chung một lần. Ngày giỗ hội có thể chính là ngày cúng việc lề, hoặc là ngày mất của vị thủy tổ, hay chọn một ngày trong tháng tảo mộ (gọi là "lễ chạp"), thường vào tháng chạp âm lịch…
Cúng Việc lề hoàn toàn mang tính cách riêng tư của từng dòng họ, nên mỗi dòng họ tự quy ước với nhau về ngày cúng và thức cúng, như là một hình thức ghi "gia phả sống". Xưa kia do chiến tranh, loạn lạc, bắt bớ, truy nã… nên nhiều gia đình, dòng họ phải thay tên đổi họ, đốt bỏ gia phả để tránh liên lụy, do đó ngày cúng, thức cúng được quy định trong cúng việc lề được xem như một “ký hiệu riêng" của nhiều dòng họ ở Nam bộ . Chính nhờ những "ký hiệu riêng" ấy trong cúng Việc lề mà người cùng dòng họ có thể nhận biết được nhau trên bước đường lưu lạc.
Cúng Việc lề còn nhằm cầu an cho dòng họ, khấn bái ông bà, tổ tiên quá vãng phù hộ con cháu tránh được mọi điều rủi ro, dịch bệnh, tai ương.
Cúng Việc lề cũng bao hàm cả nghi thức cúng thí thực. Người ta cúng một mâm cơm để ngoài sân dành cho cô hồn, cho những vong linh xấu số "xiêu mồ lạc mả", chết khi phiêu bạt, tha phương trên bước đường khẩn hoang, kiếm sống, không có con cháu cúng kiến, thờ tự. Trong tâm thức của cư dân Việt, Nam bộ họ không chỉ muốn chia xẻ, an ủi những vong linh xấu số, xa lạ mà còn tin rằng trong số những linh hồn bơ vơ, vất vưởng ấy còn có cả họ hàng, thân thích trong gia tộc mình đã chẳng may bỏ mình chốn rừng thiêng nước độc nào đấy vì đi khẩn hoang, vì tha phương cầu thực hoặc vì nạn đao binh.
Cúng Việc lề hầu như luôn kèm theo cúng đất (tức cúng tạ thổ, cúng chủ thổ), là một dạng tín ngưỡng xuất xứ từ tục cúng "tạ thổ kỳ yên" của cư dân vùng Ngũ Quảng trong quá trình khẩn hoang ở Nam bộ. Tín ngưỡng "tạ thổ" rất được xem trọng và đã được địa phương hoá. Do thiên nhiên Nam bộ khi mới khai phá còn quá khắc nghiệt (thú dữ, rừng thiêng, nước độc, dịch bệnh…), nên người ta cúng đất nhằm ngụ ý mua hay thuê, hoặc mượn tạm đất của thần linh để gia đình dòng họ được yên ổn làm ăn sinh sống.
Trong trường hợp tổ tiên dòng họ đi từ Trung vào Nam bằng tàu ghe thì trong lễ cúng Việc lề người ta lấy thân chuối làm thành chiếc tàu nhỏ, trên đó đặt thức ăn, được xem như lương thực đi đường - để đưa tiễn tổ tiên – sau đó chiếc tàu này được thả trôi nơi ngã ba sông rạch.
Tóm lại, cúng Việc lề là tín ngưỡng đặc thù của địa phương Nam bộ, được hình thành từ thời khẩn hoan đến nay đã trên dưới 300 năm. Hiện nay, tại vùng ngoại thành, thành phố Hồ Chí Minh cũng như các vùng nông thôn Nam bộ, tín ngưỡng này còn được lưu giữ khá đậm nét ở nhiều dòng họ lớn như một sinh hoạt văn hoá đặc thù có tác dụng gắn kết cộng đồng, củng cố tình thân gia tộc, dòng họ, bộc lộ sự đồng cảm, lòng nhớ ơn của con cháu đối với nguồn cội, tổ tiên và công cuộc mở đất của các bậc tiền thân.
(Sưu tầm)