A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Đi một ngày đường

Ai cũng muốn trải qua kiếp người trong cõi đời một cách yên ổn; được sung sướng, hạnh phúc là điều quý hoá; những bất trắc, gian nan, đau khổ là do số phận đưa đẩy vượt ngoài ý muốn và sự kiểm soát của mình. Vậy mà, sau mấy mươi năm yên sống cùng vợ con trên mảnh đất và làng quê thân thuộc, bác Hai của tôi bỗng nứt niềng, giang hồ cất bước.

Ảnh minh họa

Sau khi cớ sự xảy ra, bác dâu của tôi đoán chắc là bác Hai đi cùng với mấy tay lái buôn thường về làng mua lúa gạo. Bà quyết đoán như vậy bởi vì bà vẫn thường thấy mấy y hay to nhỏ với ông già; có lẽ mấy y rủ rê ông già làm chuyện chi đó. Linh tính của đàn bà khiến bà lo ngại. Thật đúng vậy! Có lần, bác Hai tôi bỗng than:               

- Buồn quá!

- Có chuyện gì mà ông buồn?               

- Mình làm ruộng rẫy, quanh năm, suốt tháng, mặt nám, tay chai, da đen, tóc cháy; gần hết đời người rồi mà chẳng thấy thảnh thơi. Biết làm sao mà đổi đời được?!    

- Đổi sao?              

Ậm ừ mãi, bác Hai tôi mới nói:

- Được như thằng Năm hàng xáo cũng sướng!               

Bác dâu tôi vừa kể, vừa khóc:

- Ai coi! Ông (ông ấy) mà đem bì với Năm hàng xáo!                

Rồi bà liệt kê bao nhiêu thói hư tật xấu của người lái buôn ấy mà bà cho là trông thấy "nhãn tiền". Năm hàng xáo tên thật là Năm Mèo. Y có bộ vó bảnh bao, lại quen thói ăn to, xài lớn. Dưới mắt bác dâu tôi, y là người ranh ma, gian xảo, thường mua cân già, bán cân non, lấy đầu này, đắp đầu kia, so hơn tính thiệt từng xu, từng cắc. Bác dâu tôi kết luận "Người như vậy mà rộng rãi nỗi gì!"; đó là  bác dâu tôi chưa tính đến thói phóng đãng, trăng hoa của y; mặc dù y đã có vợ đôi, vợ ba mà hễ gặp đàn bà, con gái là y cứ cà rà, hí hửng. Như những người đàn bà an phận, bác dâu tôi hài lòng với người chồng thật thà chất phác của mình. Bà thường nói với mọi người:                 

- Tui thấy ông Hai lo cần mẫn làm ăn mà tui thương!                 

Bởi vậy, khi nghe bác Hai tôi ao ước được như Năm Mèo, bà đã gạt đi:

- Ông lột lớp, thay hình, đổi dạng, học đòi theo Năm Mèo thì cứ đi mà đổi đời. Tui không biết tới!    

Bác dâu tôi vẫn khóc:

- Mình giận lẫy, mới nói với ổng như vậy! Không dè… ổng đi thiệt!                  

Cứ để bác dâu tôi khóc cho thỏa lòng. Trước sự tình ấy, ai còn biết làm gì hơn? Câu chuyện chẳng mấy chốc lan ra khắp đầu làng, cuối xóm. Ai cũng biết, ngủ một đêm, sáng dậy, vợ con của bác Hai tôi không thấy ông ở đâu cả! Cả nhà hô hoán lên, đi tìm. Bác dâu tôi đâm nghi, hỏi anh Thắng, con trai lớn của hai bác:                  

- Hôm qua, ba mày có đong lúa bán cho chú Năm không?

- Dạ, có! Lúc đó, má qua thăm ngoại. Con tưởng là ba có bàn với má rồi!

- Trời đất ơi!                  

Bác dâu tôi chạy ù ra bờ sông, ngó xuống bến, chỗ chú Năm Mèo vẫn thường đậu ghe. Bến sông vắng ngắt, không một bóng người. Chiếc ghe chài chở lúa của chú Năm Mèo đã nhổ neo từ hồi nảo, hồi nào rồi. Bây giờ, chắc họ đã đi xa lơ, xa lắc. Bác dâu tôi than thở với đàn con của mình:                  

- Ba của tụi bây đong lúa, bán lấy tiền, đi theo… thằng Mèo rồi!                  

Mấy người bà con, hàng xóm nghe chuyện, thấy buồn cười, cũng lựa lời an ủi bác dâu tôi:       

- Anh Hai theo thằng Mèo, chớ có phải theo con mèo nào đâu mà chị Hai khóc! Vài ngày, ảnh (anh ấy) lại về!                   

- Theo thằng rồi sẽ theo con, mấy hồi! Trời ơi là trời! Ai coi! Già rồi mà ổng (ông ấy) còn sanh tật, sanh tâm! 

***

- Đàn bà hay làm lớn chuyện! Ai mà làm gì đến nỗi tác tệ đâu!                   

Bác Hai tôi khẳng định như vậy, sau chuyến đi "bụi" về. Bác Hai tôi đi vắng hai ngày, một đêm. Khi trở về, ông vẫn còn nguyên hai bộ đồ gói mang theo; chỉ thêm chiếc nón nỉ đen mà bác cầm tay chớ không đội, bảo là mua cho anh Thắng; và thêm đôi dép nhựa đỏ dành cho con gái út. Bác dâu chất vấn:                    

- Ông đi đâu?

- Đi chơi… cho biết Sài Gòn!

- Sao ông không nói với tui?

- Nói với bà đặng… dễ đi được lắm!                     

Bác dâu tôi thở hắt ra, như trút bao nỗi buồn lo đè nặng trong lòng bà suốt hai ngày chồng mất tăm, mất tích. Bà không nói gì nữa, bỏ đi, lo việc nhà. Có lẽ, đối với bà, việc bác Hai mau chóng trở về là đã quá đủ; hoặc là việc rầy rà chồng, bà để dành thủ thỉ lúc về đêm.                

Chúng tôi, anh Thắng và tôi, là những người tò mò về chuyến đi của bác Hai tôi hơn ai hết. Chúng tôi rất muốn biết điều gì đã xảy ra trong thời gian bác Hai tôi giong ruổi và cái gì đã khiến bác Hai tôi cất bước giang hồ. Chỉ những khi vắng mặt bác dâu tôi, bác Hai mới từng lúc hé mở với chúng tôi. Quả tình là sự việc không nghiêm trọng như bác dâu tôi đã nghĩ. Chuyện đổi đời chỉ là ý tưởng mà bác Hai tôi đã diễn đạt không chính xác, khiến bác dâu tôi hiểu lầm mà thôi! Mọi sự bắt đầu từ một buổi chiều…

Đó là một buổi chiều rảnh rỗi hiếm có trong đời của bác Hai tôi. Là một lực điền, ngoài thời điểm gieo trồng, gặt hái, những công việc không tên của ruộng vườn, nhà cửa, gia đình thường chiếm hết thời gian còn lại của bác Hai tôi. Lúc lễ, Tết, giỗ đám lại là lúc bác Hai tôi sa vào trà rượu với chén chú, chén anh cùng thân bằng, quyến thuộc, bà con, hàng xóm. Vậy mà, có một buổi chiều, bác Hai tôi không biết làm gì. Bác ngồi ngó mông ra dòng sông chảy trước cửa nhà, thấy đám lục bình trôi líu ríu, trôi miết về xa. Bác bỗng nghĩ về đời sống của đám lục bình; dẫu chúng là thân bèo dạt cũng đã trôi hết xứ này sang xứ khác, theo sông mà biết nơi gần, chốn xa. Bác lại ngẫm về mình, một đời người chôn chân, mọc rễ trên mảnh đất này. Bác có đi, cũng chưa quá chợ huyện, chợ xã. Bác có vui chơi, cũng chưa đến nơi nào ra khỏi lũy tre làng. Đối với bác, con đường ra ruộng, về vườn, cả xóm làng, cả mái nhà, cả vợ con… đều quá quen thuộc, quá gần gũi đến mức bác cảm thấy như không nhìn, không nghĩ, không sờ mó, đụng đến cũng biết được. Ước muốn được biết về những điều mới lạ, những thứ ngoài mình bỗng chốc xâm chiếm bác Hai tôi. Bác nghĩ đến Năm Mèo và chiếc ghe mua lúa của y. Vậy là bác gọi Năm Mèo, rồi bảo con trai bác đong và vác xuống ghe của y bốn mươi giạ lúa. Hai người đàn ông thì thầm với nhau. Hai giờ khuya đêm ấy, bác Hai của tôi xuống ghe mua lúa của Năm Mèo. Vài phút sau, chiếc ghe chở lúa khẳm mẹp ấy được kéo neo, nhổ sào, từ từ tách bến.             

Thật là, chúng tôi không hiểu được, trong tâm hồn của người đàn ông đã luống tuổi có vẻ bên ngoài cục mịch như bác Hai tôi lại có một khoảng dành cho niềm khao khát hết sức lãng mạn ấy. Chúng tôi cũng sẽ cạn nghĩ, khi cho rằng ông già chỉ bận tâm đến manh áo, chén cơm và nếu hơn nữa là đất đai, nhà cửa. Bốn chục giạ lúa để đổi lấy chuyến đi chơi cho biết Sài Gòn là một sự kiện đặc biệt trong cuộc đời của bác Hai tôi. Vì vậy, chúng tôi càng háo hức muốn biết cụ thể về chuyến đi của bác. Bác Hai tôi tủm tỉm cười, khi chúng tôi thúc giục:                

- Từ từ… để đỡ việc rồi, tao kể cho mà nghe!                

Nhằm lúc vui vẻ, bác Hai kể, để chúng tôi biết thế nào là nằm trong khoang ghe chở lúa, thế nào là bồng bềnh sóng nước. Những lúc nhâm nhi bên mâm rượu, bác lại bật ra câu chuyện Năm Mèo: 

- Thằng đó, vậy mà… bợm bẫy lắm!

- Bợm bẫy là sao, bác Hai?

- Nó gạt mấy bà vợ của nó, mà gạt theo kiểu… hàng xáo, mới ngặt!                

Tiếng tăm về Năm Mèo thì… trong làng tôi, ai cũng biết nhưng đến đoạn này thì bọn tôi, ai cũng ngóng nghe. 

"Nó nói với tao là nó có một bà vợ ngon lắm, làm chủ quán bán rượu, bia ở Sài Gòn. Nó nói:           

- Tui sẽ dắt anh Hai tới đó chơi, cho biết mặt bả (bà ấy)!               

Mới đi một đỗi, nó đã cho tắt máy, neo ghe đậu giữa sông. Tao tưởng là máy ghe hư nên đang nằm trong khoang đã lồm cồm bò dậy, định chui ra sau lái coi sự thể ra sao. Đang bò nửa chừng, tao nghe bên ngoài có tiếng đàn bà. Hình như bà kia đang ở trên xuồng nhỏ, cặp vô be ghe của Năm Mèo, giọng cằn nhằn, cẳn nhẳn:           

- Ba sắp nhỏ đi cả chục ngày mà mặc dơ có một bộ đồ này hả? 

- Mấy bộ mặc dơ, hôm trước, đã giặt hết rồi! Tiền gói ở trỏng, cầm coi chừng rớt!               

Bà kia nghe nói có tiền gói theo, nín thinh, không hỏi vặc mắc nữa. Vậy rồi Năm Mèo cho nổ máy ghe, đi tiếp. Đi một quãng sông nữa, cỡ mấy tiếng đồng hồ, Năm Mèo lại cho ghe đậu lại. Nó lại gởi lên bờ cho bà vợ khác số quần áo dơ còn lại và tiền, số tiền chắc là không nhiều lắm, rồi nó lại cho nổ máy ghe đi tiếp. Nó cười hì hì với tao:

- Lót bến chuyến về, anh Hai! Coi như mình lo trước nơi ăn, chốn ở cho mấy ngày đi lại!                

Tao hỏi nó:

- Có chừa bộ quần áo dơ nào cho người vợ ở Sài Gòn không?              

 Nó lắc đầu, nói tỉnh queo:

- Đàn bà kẻ chợ không chịu cực khổ mà giặt quần áo cho mình đâu. Đối với mấy bả (bà ấy), mình phải có "phép” khác!” 

Bác Hai tôi nói tới đó thì dừng lại. Anh Thắng ngồi ở góc nhà, hỏi nôn tới:

- Phép gì vậy, ba?                  

Bác Hai tôi gầm mặt xuống, nói cộc lốc:

- Thôi! Bỏ đi!                 

Vậy là bác Hai tôi không chịu kể tiếp nữa. Chúng tôi lần lượt tan ra, chờ dịp khác. Điều khiến tôi cứ thắc mắc là, lần nào cũng vậy, cứ kể đến đoạn đó là bác Hai tôi đổ quạu. Tôi điểm lại tất cả những điều bác Hai tôi kể thì hình như bác không hề đả động đến Sài Gòn, tựa như bác chưa bao giờ đến đó. Còn điều gì nữa hệ trọng hơn trong chuyến đi của bác, mà bác thấy nói ra bất tiện hoặc là bác muốn giữ lấy cho riêng mình. Tôi cứ theo đuổi ý nghĩ này nhưng không dám tỏ bày, chia sẻ cùng anh Thắng, để giữ trọn vẹn tình cảm của hai cha con của bác Hai tôi. Tôi một mình lặng lẽ theo dõi bác Hai tôi.                

Nhà tôi và nhà bác Hai tôi chỉ cách nhau có một mảnh vườn nhỏ, cùng trên phần đất của ông nội tôi để lại cho con cháu. Do đó, cả hai bên nhà đều có thể trông sang và nhìn thấy nhau. Nhiều lúc, tôi trộm thấy bác Hai tôi ra vào tư lự. Có lúc, tôi lại thấy bác Hai tôi ngó mông ra sông. Đôi khi, tôi lại thấy bác Hai tôi ngóng ra bến nước, chỗ chú Năm Mèo vẫn thường neo ghe mua lúa của bà con trong xóm tôi. Tôi cứ nơm nớp lo. Tôi lo là Bác Hai tôi lại làm một chuyến giang hồ nữa! Nếu như lần này bác Hai tôi lại đong lúa bán và lại đi… cho biết Sài Gòn, liệu bác gái của tôi có im lặng mà chịu đựng nữa hay không? Là bà con ruột thịt, lẽ nào tôi lại làm ngơ nhìn bác tôi nát cửa, tan nhà. 

Hôm ấy, gặp dịp hai bác cháu tôi cùng đi sạ lúa trên đồng. Nhân lúc nghỉ tay, tôi lân la dò hỏi, định lựa lời khuyên can bác Hai tôi. 

- Bác Hai có tính đi Sài Gòn chơi chuyến nữa không?

- Không!            

- Đi một lần đã biết chán, còn đi chi nữa, phải không bác Hai?

- Tao có biết Sài Gòn là gì đâu!             

- Vậy, hôm trước bác đi đâu?

- Thì đi… Sài Gòn!             

Trước vẻ ngơ ngác của tôi, bác Hai tôi bật cười. Vậy là, vừa vấn thuốc hút, bác Hai tôi vừa kể, sau khi tôi hứa là không tiết lộ với ai, nhất là với bác dâu tôi, về câu chuyện mà tôi nghe được ở bờ ruộng này. Tôi đã chắp nối câu chuyện đứt khúc, đứt đoạn này.

" … Chiếc ghe chài gắn máy bốn ngựa của Năm Mèo chạy đến chiều hôm đó là tới bến Sài Gòn. Sau khi nói chuyện buôn bán và giao lại cho bạn lái coi bốc dỡ hàng, Năm Mèo dắt tao đến quán nhà của nó. Cái quán hơi tuềnh toàng, nằm cách bến sông xuống hàng độ vài ba hơi thuốc. Nó giống như các quán bên đường dành cho khách vãng lai như tài xế, lơ xe, chủ ghe, bạn lái… Quán cũng có phòng tắm, nhà vệ sinh, có cả phòng cho khách trọ ngủ qua đêm nữa. Tao vừa tắm xong, bước ra, đã thấy Năm Mèo ngồi chờ bên bàn rượu.

- Làm vài xị rượu thuốc cho giãn gân cốt, anh Hai, rồi tui sẽ kêu bà xã tui ra giới thiệu!

- Được!”

"…  Tao gặp nó cũng ở quán rượu của vợ bé Năm Mèo. Nó trạc tuổi thằng Thắng thôi. Trong đám đông mấy đứa con gái son phấn lòe loẹt, tấp nập vô ra tiếp khách, nó ăn mặc giản dị, sạch sẽ, chỉ đứng lấp ló ở góc bếp. Tao nhìn bộ dạng của nó, thấy nó giống mấy đứa con gái ở quê mình. Tao hỏi nhỏ Năm Mèo. Năm Mèo bảo nó là con nhỏ giúp việc lặt vặt, việc quán, việc nhà, gọi nôm na là người ở. Tao thấy, hình như nét mặt nó không vui. Năm Mèo bảo nó là con gái ở quê do Năm Mèo dẫn dắt lên Sài Gòn làm mướn và có sự đồng ý của ba má nó. Nghe Năm Mèo nói, ba má nó ở dưới quê nhưng nghèo lắm. Họ ở quê mà không có đất đai, ruộng rẫy chi cả. Họ chỉ rặt đi làm mướn, làm thuê kiếm sống. Mấy tháng trước, má của nó bịnh mà nhà lại thiếu tiền lo thuốc nên ba má nó mới mượn đỡ của Năm Mèo. Sau đó, ba má của nó không trả nợ nổi nên họ đành phải cho con gái đi ở, giúp việc cho vợ Năm Mèo, để trừ nợ lần hồi. Nếu đã làm công trừ dứt nợ rồi mà con nhỏ còn muốn ở lại làm thêm thì vợ chồng của Năm Mèo sẽ tính tiếp.

Chuyện của người ta, tao hỏi cho biết, biết rồi cũng đành thôi! Cha mẹ nghèo khổ, buộc lòng phải đợ con, chớ biết làm sao? Cuộc đời là vậy! Quê mình có tiếng là ruộng đất mênh mông đến cò bay thẳng cánh nhưng cũng có kẻ no người đói; kẻ dư dả bán lúa lấy tiền đi chơi như tao, cũng có người nghèo khó phải đem con đi làm kẻ hầu, người ở như cha mẹ con nhỏ đó. Tao ngẫm, đất Sài Gòn phồn hoa đô hội, chắc cũng không thiếu gì kẻ sang, người hèn… Tao cứ nghĩ mà thấy buồn. Buồn! Tao ngồi uống rượu tì tì với Năm Mèo, cho đến lúc trời tối mịt hồi nào cũng chẳng biết.

Năm Mèo kêu mệt, đòi đi ngủ sớm, bỏ vô trong. Vợ bé của Năm Mèo đi ra, bảo là có dành cho tao một phòng bên cạnh. Ngồi một mình cũng buồn, tao mới vô phòng nằm nghỉ. Tao nằm hoài không ngủ được, phần vì lạ chỗ, lại vì đã ngủ cả ngày trên ghe lúa lúc đi đường rồi. Phòng bên cạnh, vợ chồng Năm Mèo rọ rạy hồi lâu, rồi tao nghe tiếng vợ nó nói nhỏ:

- Kêu đứa nào cho anh Hai không?

- Thôi! Ổng (ông ấy) già rồi! Đừng làm bậy bạ! Còn giữ đường cho tui về dưới làm ăn!"

Bác Hai tôi ngừng kể, cười khậc khậc:                

- Thằng hàng xáo đó vậy mà khôn! Nó mà để vợ nó gạt tao trận đó là nó hết đường về Bến Nước. Nó gian xảo mà cũng biết lựa chỗ, lựa người. Còn tao chỉ tính đi vãn cảnh cho biết Sài Gòn, chớ đâu có tính chuyện "trăng hoa" đó! Mà mày nghĩ coi, tao già rồi, còn “củi lửa” gì đâu mà ham hố?

" … Rồi sao nữa hả? Ờ …! Tao nằm lăn qua, trở lại đến hơn nửa đêm. Bỗng, tao nghe có tiếng động ngoài quán, rồi lại nghe có tiếng con gái khóc. Tao ngồi dậy, mở cửa phòng, bước ra. Tao thấy quán của vợ Năm Mèo đã dẹp vắng teo mà con nhỏ giúp việc còn ngồi khóc trong góc bếp. Tao ra bàn ngồi, ngoắc nó lại, hỏi chuyện. Nó đến, nói mà không dám nói lớn, sợ người khác nghe thấy. Thì ra, có thằng quỷ ôn nào đó, là khách ngủ trọ, mò vô mùng nó. Nó không chịu, giẫy được, chạy ra.            

- Sao không la lên, méc bà chủ?

-  Bà chủ dặn, nếu có như vậy, không chịu thì thôi, không được la. Nếu con la lên, sẽ làm mất mặt khách, khách sẽ không tới quán nữa; chừng ấy, bà chủ sẽ trừ lương, đuổi việc…            

- Lỡ bây giẫy không được thì sao?

- Con không biết nữa! Lần nào cũng vậy, con ráng giẫy, chạy ra, không dám trở vô trỏng nữa…            

- Vậy là chuyện xảy ra nhiều lần rồi hả?

- Dạ!            

Con nhỏ dạ rồi khóc nghẹn.

- Sao bây không trốn về quê?             

- Dạ! Chú Năm biết nhà ba má con dưới quê. Con mà trốn về, thế nào chú Năm cũng theo bắt lại, vì ba má của con còn nợ tiền của chú Năm. Con tính sẽ ráng ở đến khi trừ hết nợ là con xin về liền…

- Lỡ, từ đây đến lúc đó, bây giẫy không khỏi đám quỷ đó, rồi sao?

Con nhỏ làm thinh khóc.

- Liệu bề, bây trả hết nợ rồi, vợ chồng Năm Mèo có cho bây về không ?

- Dạ! Con không biết!

- Thôi! Từ từ… để tao tính cho!            

Vậy rồi, tao nhường cái phòng của tao cho nó vô nghỉ đỡ. Tao còn phải dặn nó gài chốt trong phòng cho chắc chắn. Còn lại một mình, tao ngồi giữa quán, với bình trà, chờ sáng. Sáng ra, tao uống cà phê với Năm Mèo, nói chuyện chuộc con nhỏ.

- Nhỏ nào, anh Hai?

- Con nhỏ giúp việc!

- Con Thơm, hả?

- Ờ!... Chắc là con Thơm!

Tao kể hết sự tình cho Năm Mèo nghe. Năm Mèo ngồi làm thinh nghe, rồi nói:

- Chuyện đó… để tui nói lại với bả (bà ấy). Bả (bà ấy) xếp chỗ ngủ lại cho nó, thì êm. Còn anh Hai cứ để tiền mà đi chơi…   

- Thôi! Tao hết muốn đi chơi rồi! Giúp cho con Thơm rồi, tao về dưới quê liền, sợ bả (bà ấy) với mấy đứa nhỏ ở nhà rầu lo. Hồi đi, tao có nói với ai tiếng nào đâu!

Năm Mèo ngồi dùng dằng một lát rồi kêu con Thơm ra, hỏi:

- Ông Hai trả nợ dùm cho ba má mày. Mày chịu trở về dưới quê không?

 - Dạ! Chịu!

Thấy con nhỏ mừng rơn mà tao bất nhẫn. Tính ra, vừa tiền nợ vừa tiền lời, ngót nghét gần ba mươi lăm giạ lúa. Cũng may, tao đem vừa đủ, còn dư chút ít. Lúc ngồi chờ sáng, tao đã tính rồi, nếu như vợ chồng Năm Mèo đã tính hết số nợ của ba má con Thơm mà tiền tao đem theo trả giùm còn thiếu thì tao sẽ hẹn lại với Năm Mèo, tới khi về dưới quê mình, tao sẽ đong lúa thêm cho đủ số, đặng chuộc con nhỏ ra. Tính tiền bạc với vợ chồng Năm Mèo xong xuôi, tao với con Thơm đi xích lô ra bến xe miền Tây. Nó mua vé về quê nó. Tao mua vé về nhà mình. Tao coi lại trong túi, thấy còn dư chút ít tiền. Tao cho con Thơm thêm vài chục để ăn đi đường. Còn một ít tiền, tao ra sạp hàng phía trước bến xe, mua cho thằng Thắng cái nón và con Mén đôi dép. Vậy rồi, tao và con Thơm, mạnh ai nấy lên xe, về thẳng.

Ngồi xe về dọc đường, tao cứ nghĩ chuyện tao chuộc con Thơm dùm ba má của nó cũng chẳng qua như thả cá về sông. Trong dòng sông rộng lớn, hễ con cá này thoát thân thì con cá khác cũng dính câu, mắc lưới. Tao chuộc con Thơm ra rồi, thế nào Năm Mèo cũng tìm được đứa khác đem lên giúp việc cho vợ nó, cũng là đứa con gái thuộc nhà nghèo khó ở quê mình. Rồi cảnh cũ lại diễn ra nữa thôi, vì trong cuộc đời này còn nhiều người phải dùng thân mình để đổi lấy miếng cơm manh áo! Nghĩ như vậy nhưng tao cũng chẳng tiếc số tiền đã bỏ ra để chuộc con Thơm giùm cho ba má của nó. Việc của tao làm, tao coi như giúp người hoạn nạn, vậy thôi!"

*** 

- Chuyện như vậy, tao nói mà mày tin không? Nếu mày không tin thì đợi khi nào Năm Mèo về mua lúa ở làng mình mà hỏi. Nhưng tao chắc rằng, dù Năm Mèo có đứng ra làm chứng, bác dâu mày cũng không tin, bởi vì… bả đâu có tin cậy Năm Mèo. Mà… ai tin nó cho được? Nó là thằng bợm bẫy mà!

Bác Hai tôi ngửa mặt cười, cái cười đầy tự tin và mãn nguyện. Tôi chắc rằng, bác Hai tôi hài lòng với việc mình đã làm. Và, tôi tin tất cả những gì mà bác Hai của tôi đã kể lại về chuyến đi ngắn ngủi của ông.

Nguyễn Lập Em (Tạp chí Nhà văn Tp HCM)


Tin liên quan

Tin tiêu điểm

noData
Không có dữ liệu